Thị trấn Hoàng Mai, nơi địa đầu của tỉnh Nghệ An, vùng Nam Thanh - Bắc Nghệ. Nơi đây có phong cảnh "sơn thuỷ- hữu tình"; nằm trên trục đường giao thông Bắc - Nam, huyết mạch giao thông của cả nước, vùng trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá - an ninh - quốc phòng, trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Ban chỉ đạo:
Nguyễn Bá Sự
Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch HĐND thị trấn
Nguyễn Bá Hào
Phó Bí thư Đảng uỷ thị trấn
Nguyễn Bá Huy
Phó Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch UBND thị trấn
Nguyễn Bá Nam
Chủ tịch UB MTTQ thị trấn
Phan Đức Điển
Phó Chủ tịch UBND thị trấn
Ban sưu tầm tư liệu:
nguyễn bá nam
Chủ tịch UB MTTQ thị trấn
nguyễn bá doãn
nguyễn quốc tuấn
Chủ biên:
Quách Hữu Đăng
Ảnh: tư liệu
LỜI NÓI ĐẦU
Thị trấn Hoàng Mai, nơi địa đầu của tỉnh Nghệ An, vùng Nam Thanh - Bắc Nghệ. Nơi đây có phong cảnh "sơn thuỷ- hữu tình"; nằm trên trục đường giao thông Bắc - Nam, huyết mạch giao thông của cả nước, vùng trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá - an ninh - quốc phòng, trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Thị trấn Hoàng Mai có lịch sử lâu đời, trải qua hàng ngàn năm, nơi đây đã có con người sinh sống, họ đã khai sơn phá thạch, quai đê, lấn biển, ngọt hoá đồng ruộng xây dựng xóm làng, góp phần cùng cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, nhân dân thị trấn một lòng đi theo Đảng, sớm giành được chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, có nhiều đóng góp cho hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng bộ và nhân dân thị trấn vững bước đi lên trên con đường đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, giữ được nét đẹp truyền thống văn hoá quê hương, đồng thời xây dựng được nét đẹp văn hoá văn minh, hiện đại.
Lịch sử đảng bộ, nhân dân thị trấn Hoàng Mai vẻ vang, hào hùng cần được lưu giữ và bồi dưỡng, giáo dục cho các thế hệ hiểu biết về truyền thống quê hương, từ đó nâng cao niềm tự hào và thấy rõ trách nhiệm với quê hương, đất nước.
Thể theo yêu cầu, nguyện vọng của đảng bộ và nhân dân, trước đây chúng ta đã tiến hành sưu tầm, biên soạn nhưng chưa đúng tầm với mảnh đất "địa linh, nhân kiệt". Đáp ứng nguyện vọng đó, Đảng uỷ ra Nghị quyết về: "sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn lịch sử thị trấn Hoàng Mai". Qua đóng góp, cung cấp thêm tư liệu của các bậc cao niên, các đồng chí nguyên là bí thư, chủ tịch qua các thời kỳ, đến nay cuốn "Lịch sử thị trấn Hoàng Mai" được hoàn thành. Cuốn sách đã phản ánh được quá trình hình thành, xây dựng và phát triển từ khi có làng, xã cho đến ngày nay.
Lịch sử chỉ có một, nhưng làm nên lịch sử là tất cả các thế hệ nối tiếp nhau và viết sử cũng là công việc của nhiều người đóng góp tư liệu, toạ đàm, bổ sung để cuốn sử hoàn chỉnh. Cuốn sử hoàn thành là kết quả tập hợp trí tuệ của nhiều người là sự đóng góp của các bậc cao niên, của cán bộ các ban, ngành, đoàn thể và các cá nhân, nhân dân thị trấn Hoàng Mai. Trong quá trình biên soạn, chúng tôi nhận được sự giúp đỡ của các đồng chí lãnh đạo huyện, Ban Tuyên giáo Huyện uỷ, chúng tôi xin chân thành cảm ơn.
Nhân dịp chào mừng Đại hội Đảng các cấp, chào mừng 80 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và những ngày kỷ niệm lớn trong năm 2010, chúng tôi trân trọng ra mắt bạn đọc cuốn sách này. Cuốn sách còn nhiều thiếu sót, kính mong được sự góp ý, bổ sung để cuốn sách lần sau tái bản, chất lượng cao hơn.
Xin trân trọng cám ơn.
Hoàng Mai, tháng 12 năm 2009
Đảng ủY, HĐND, UBND, UB MTTQ
thị trấn Hoàng Mai
Chương I
Khái quát chung miền quê thị trấn Hoàng Mai
I. Địa lý, sự hình thành thị trấn hoàng mai
1. Vị trí địa lý:
"Ai đi vô xứ Nghệ, ghé đất đỏ Hoàng Mai…", nơi đây được xem như một vùng đất "địa linh - nhân kiệt", vùng ranh giới Thanh - Nghệ, cách thị trấn huyện lỵ Cầu Giát 15km về phía Bắc.
Thị trấn Hoàng Mai xưa có tên là Trú Kỵ(), thời Nguyễn (1831) đổi tên là Thiện Kỵ, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 là xã Văn Hoá (1946), năm 1947 là xã Vinh Hoa, năm 1948-1954 là xã Quỳnh Mai(), tháng 4 -1954 xã Quỳnh Mai được chia tách - tên xã Quỳnh Thiện có từ đó. Năm 1976, Quỳnh Thiện - Quỳnh Vinh - Quỳnh Dị hợp nhất lấy tên là xã Quỳnh Mai. Năm 1981, lại tách xã Quỳnh Mai thành 3 xã: Quỳnh Thiện - Quỳnh Vinh - Quỳnh Dị.
Theo Nghị định số 41/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ, thị trấn Hoàng Mai được thành lập trên cơ sở diện tích, dân số của xã Quỳnh Thiện.
Diện tích tự nhiên: 1.160 ha
Dân số: 9.482 người, 2.296 hộ.
Thị trấn có 10 khối, tính từ phía Nam ra phía Bắc bao gồm: Thịnh Mỹ, An Thịnh, Tân Phong, Nam Mỹ, Bắc Mỹ, Tân Sơn, Tân Tiến, Tân Hương, Tân Hùng, Tân Thành.
Phía Bắc thị trấn giáp huyện Tĩnh Gia (Thanh Hoá), nơi kinh tế phát triển khá sôi động. Nơi đây có Nhà máy xi măng Nghi Sơn công suất 2,4 triệu tấn/năm, gần Khu công nghiệp lọc hóa dầu hiện đại, cảng nước sâu...
Phía Tây - Tây Bắc thị trấn giáp xã Quỳnh Vinh, nơi có Nhà máy xi măng Hoàng Mai, có thời cùng chung một xã xây dựng quê hương bảo vệ Tổ quốc, là túi đựng bom đạn của giặc Mỹ.
Phía Nam giáp xã Mai Hùng cùng cảnh ngộ “chưa nắng đã khô, chưa mưa đã lũ”, được ngăn cách bởi dòng sông Mai, con sông hiền hoà nhưng cũng biết bao dữ tợn. Dòng sông được nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sỹ… ngợi khen, bởi vẻ đẹp núi Sứ - sông Mai tạo dáng sơn thuỷ hữu tình.
“Tùng Mai, sơn vị gắn liền
Phô bày phong cảnh thiên nhiên hữu tình
Um tùm một giải non xanh
Dòng sông nước biếc lượn quanh một vùng” ()
Phía Đông Bắc và phía Đông thị trấn giáp xã Quỳnh Lộc và xã Quỳnh Dị, có nhiều núi đá vôi tạo nên những hang động đẹp. Những dãy núi này ngày nay là nguồn nguyên liệu cung cấp cho Nhà máy xi măng Nghi Sơn. Quỳnh Dị đã cùng một thời chung lưng đấu cật xây dựng, bảo vệ quê hương.
Thị trấn có vị trí trung tâm kinh tế - chính trị, văn hoá - xã hội, quốc phòng – an ninh lâu đời của phía Bắc huyện Quỳnh Lưu, nơi giao lưu hội tụ các huyết mạch giao thông của cả nước, có đường thiên lý (nay là quốc lộ 1A), kênh Nhà Lê, sông Hoàng Mai chảy qua.
Thị trấn có Quốc lộ 1A đi qua theo hướng Bắc - Nam với chiều dài hơn 9km; đường sắt xuyên Việt, đường tỉnh lộ 537B chạy qua vùng bãi ngang ven biển nối liền với các huyện của tỉnh Nghệ An. Đường đi Quỳnh Lộc gắn với lạch Cờn - cảng biển của phía Bắc huyện Quỳnh Lưu; đường đi ga Hoàng Mai nối với vùng núi cao của huyện, sau đó toả đi các huyện miền núi của tỉnh Nghệ An. Đường thuỷ có sông Hoàng Mai bắt nguồn từ các huyện Như Xuân, Như Thanh ở phía Tây Nam tỉnh Thanh Hoá, chảy qua huyện Nghĩa Đàn, phía Tây của huyện Quỳnh Lưu, sau đó theo chảy hướng Tây - Đông; có độ dài 44 km và lưu vực 3.700 km2, đổ ra Cửa Cờn thông thương với đại dương mênh mông. Ngày nay thượng nguồn của sông Hoàng Mai là hồ Mực Mấu thuộc các xã Quỳnh Thắng và Tân Thắng. Từ khi xây dựng hồ Vực Mấu, chiều dài của dòng sông chỉ còn lại 19,4 km. Kênh đào nhà Lê (kênh Son) được đào từ thế kỷ thứ VIII, nới rộng khơi thông từ đầu thế kỷ thứ X, thông thương từ nội địa ra các cảng biển. Bởi vậy thời Tiền Lê (Lê Hoàn), thị trấn Hoàng Mai là trung tâm của vùng Bắc Quỳnh Lưu.
Từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, thị trấn Hoàng Mai trở thành trung tâm kinh tế - chính trị của cả vùng Bắc Quỳnh Lưu và trong suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, các cơ quan, xí nghiệp từ Trung ương đến tỉnh, huyện thuộc các lĩnh vực đều đóng trên địa bàn thị trấn. Ngày nay trên bước đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thị trấn sẽ trở thành thị xã của khu kinh tế trọng điểm Nam Thanh - Bắc Nghệ mà Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch.
Khí hậu, thời tiết:
Nằm ở phía Bắc Trung - Trung Bộ, ảnh hưởng nhiều với Thanh Hoá, thị trấn Hoàng Mai có toạ độ 105042' kinh độ Đông, gần 200 vĩ độ Bắc, là khu vực nhiệt đới, gần biển nên luôn nhận được 3 luồng gió.
Gió mùa Đông Bắc từ Bắc Bộ tràn về mang theo giá lạnh, rét buốt và mưa phùn vào khoảng tháng 11 đến tháng 3 (âm lịch).
Gió Tây Nam luồn qua dãy Trường Sơn, trút nước xuống phía tây dãy Trường Sơn mang gió nắng, bức khó chịu thổi vào miền Trung, nhân dân thường gọi là gió Lào từ tháng 4 đến tháng 7 (âm lịch).
Gió Đông Nam mát mẻ từ biển Đông thổi vào trong những ngày nắng hè oi bức, dân thường quen gọi là gió Nồm Nam.
Khí hậu thị trấn Hoàng Mai chia làm 2 mùa rõ rệt: nắng nóng từ tháng 5 -tháng 10, mùa lạnh giá từ tháng 11 (rét buốt vào tháng 12, tháng 1) đến tháng 3 (âm lịch) năm sau.
Mùa nắng nóng: Nhiệt độ bình quân 300C, có ngày lên tới 410C. Từ tháng 5 đến tháng 8 thường có giông tố, bão nổi kèm theo sấm chớp dữ dội, trong cơn giông có những vệt sáng loé (dân thường gọi là sét), thỉnh thoảng có mưa đá. Trong những ngày cơn giông lốc, mưa làm cho nhà cửa bị tàn phá.
Điểm địa đầu của tỉnh Nghệ An, nhìn chung khí hậu của vùng thị trấn không khắc nghiệt như những địa phương khác. Gió mùa đông bắc được che chắn bởi dãy núi Xước, gió Lào có dãy Tùng Lĩnh, Sứ Sơn bao che. Phía trước là biển Đông, đón nhận được gió Nồm Nam. Mỗi khi gió Lào oi bức, nắng nóng không những làm ảnh hưởng cho sản xuất mà còn tạo nên cả tính khí con người.
2- Sự hình thành thị trấn Hoàng Mai
Vùng đất Trú Kỵ, Thiện Kỵ xa xưa đã có nhiều sử sách ghi chép. Theo "Địa chí văn hoá Quỳnh Lưu", vào thời Đường Tuyên Tông (860-874), Cao Biền đã huy động sức dân đào 2 đoạn kênh là kênh Hoàng Mai và kênh Đò Cấm để nước chảy xuôi ra biển. Kênh Hoàng Mai chảy từ Tĩnh Gia (Thanh Hoá) đến giáp đê Nông Đoàn - Hoàng Mai, vòng quanh các xóm Đồng Quanh, Dị Lệ, chợ Trẹ, Tân An (Quỳnh Lộc), gặp hạ lưu sông Hoàng Mai tại ngã ba đi về Quỳnh Lập, Quỳnh Phương rồi chảy ra cửa Cờn (cũng gọi là kẻ Trắp). Đó chính là kênh Son… Như vậy, cả vùng Hoàng Mai kéo đến Quỳnh Tụ, vào thế kỷ thứ VIII và IX, cư dân đã tương đối đông đúc. Nếu không thế, Cao Biền huy động lực lượng dân công ở đâu mà đào kênh Son?().
Dẫn theo các nguồn sử liệu khác và qua các tộc phả, các cụ già cao niên cho biết: xưa vùng đất này ngập mặn, thuỷ triều lên xuống, dấu ấn còn để lại như hang Nhà Trò. Vùng đập đá Chiêng, các dãy núi đá vôi ở vùng Đông Bắc thị trấn còn in đậm dấu tích của sự biến đổi biển tiến, biển lùi. Cách ngày nay khoảng 6.000 - 7.000 năm, vùng đất thị trấn vẫn nằm trong vùng đại dương mênh mông. Sau đó biển lùi dần tạo ra một vùng sình lầy, là địa bàn tạo ra nhiễm thể, sò điệp làm thức ăn cho người nguyên thuỷ Quỳnh Văn. Dần dà vùng đất phía Đông Bắc sớm được bồi tụ, tạo ra cảng Xước. Có thể khẳng định vùng đất Hoàng Mai, trung tâm là thị trấn được hình thành sớm từ thế kỷ thứ VIII và được phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ nước ta giành độc lập từ tay phong kiến Trung Hoa.
Vùng đất thị trấn được khai phá mạnh mẽ từ thế kỷ thứ XI. Thời Lý, năm 1041, Lý Nhật Quang, con thứ 8 của vua Lý Thái Tổ, được triều đình xuống chiếu cử làm tri châu Nghệ An. Vào đây, với tài kinh bang tế thế, ông quan tâm đến chính trị, kinh tế và quân sự. Năm 1044, Lý Thái Tông thân chinh cất quân đi đánh Chiêm Thành. Lúc về đến hành dinh Nghệ An, vua gọi Uy Minh Hầu Lý Nhật Quang đến để yên ủi và trao tiết liệt cho trấn thủ châu ấy, gia phong tước vương.
Trước đó ông đã có công đặt trại Bà Hoà ở Hoàng Mai (vùng phía Đông Bắc thị trấn Hoàng Mai), chiêu dân, dựng ấp, tích trữ lương thực. Ông sức cho dân nạo vét kênh Son (còn có tên gọi kênh Bà Hoà, kênh nhà Lê, kênh Dâu) để thuyền nhà vua đi lại được dễ dàng. Khi ông mất, cả vùng Hoàng Mai nói riêng và nhiều nơi trong huyện đã dựng đền thờ Lý Nhật Quang (theo thống kê chưa đầy đủ, cả huyện có trên 36 đền thờ Lý Nhật Quang).
Các làng xã liền kề thị trấn, có thời là một xã, như hai làng Dị Nậu, Thiện Kỵ… Cuối thời Bắc thuộc đã có đông dân cư sinh sống làm nên các công trình chùa, chiền, miếu, giếng cổ.
Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 3 (603 - 939) ở làng Cần (Quỳnh Trang); gia phả họ Lê Sỹ đến nay đã gần 40 đời trên 1.000 năm. Theo "Địa chí văn hoá Quỳnh Lưu", cuối thời kỳ Bắc thuộc, hai làng Dị Nậu, Thiện Kỵ đã có con người sinh sống, dấu vết còn lại là đồ gốm được đào ở xóm Quang Trung (Quỳnh Dị). Các đền, nghè còn lại lưu dấu vết: nghè họ Quách (Quỳnh Dị), giếng Kỵ, giếng Học (thị trấn Hoàng Mai).
Khai khẩn đất đai, lập làng là công lao, sức lực của nhiều dòng họ và qua nhiều thế hệ. Điều đáng trân trọng là các họ đến đây, dù nhiều đinh hay ít đinh đều đồng cam cộng khổ xây dựng xóm làng, quê hương.
Điều 10 Hương ước của làng có ghi: “Trong thôn, làng ai có công khai khẩn đất hoang trồng cây cối thì có toàn quyền sử dụng. Người khác không được tự động chặt phá. Nếu xẩy ra trộm cắp, dù chỉ một quả cây, một nhánh cây, nắm lá, nếu chủ khiếu nại cũng phải xung 30 roi, nạp 30 quan tiền và trả lại những gì đã mất cắp”().
Từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ IX, dân cư đã đông đúc. Ngày nay qua thống kê trên đất thị trấn đã có hơn 35 dòng họ. Dưới đây là một số dòng họ tiêu biểu()
Họ Đậu Huy - Đậu Phi.
Họ có nguồn gốc từ xã Vĩnh Hải, huyện Thanh Hoà, tỉnh Hải Dương vào Trú Kỵ, đến nay đã hơn 600 năm. Trong họ có người đỗ đạt làm quan qua các triều đại. Thời Tiền Lê có Đậu Yên Sơn làm Đô chỉ huy sứ vào Nghệ An năm 1059; thời Trần có ông Đậu Yên Thái chức Thượng thư hoa thư hầu tướng công, đời vua Trần Anh Tông thứ 14(1293-1314). Hai ông đã sinh ra dòng họ Đậu ở làng Trú Kỵ (Hoàng Mai), Diễn Châu, Yên Thành, Nghi Lộc… Thời Hậu Lê (1414 - 1433), có 5 cha con, ông, cháu: Đậu Nhân Nghĩa, Đậu Nhân Lý, Đậu Nhân Xã… tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đều được phong các chức: Quản lĩnh hầu, Lâm khê hầu Tướng công và được quyền chiêu tập mộ quân trên đất Quỳnh Lưu. Đậu Nhân Ân được vua Lê Nhân Tông phong chức Lâm khê hầu Tướng công. Năm thứ 12 vua Lê Dụ Tông, niên hiệu Vĩnh Thịnh Bảo Thái Khang Hy (1705-1720), Đậu Nhân Phương thi đậu Tam giáp tiến sĩ, bổ nhiệm chức Ngự tiền (giữ con dấu nhà vua). Đậu Nhân Triêm thi đậu hương cống, bổ nhiệm làm quan ở Quốc Tử Giám dạy học và được giám thị các kỳ thi do vua mở. Thời Nguyễn: Đậu Yên Khâm, Đậu Yên Tường tham gia phong trào Tây Sơn. Ông Đậu Mận Dụ làm chức Binh bộ lam trung. Thời Pháp thuộc có ông Đậu Khuyến (còn có tên gọi Cụ Hội, Hội Hoàng) là nhà doanh nghiệp, Đại biểu Viện dân biểu Trung Kỳ. Ngày nay, nhiều thế hệ nối tiếp tổ tông, làm rạng danh cho dòng họ, cho quê hương và đất nước.
Họ Trần Văn.
Gốc tổ từ Nam Định vào Hoàng Mai đến nay đã trên 17 đời. Năm Thiệu Trị thứ 2 có ông Trần Định (còn có tên gọi Bang Kiểm), học sinh trường Quốc tử Giám, ở Bộ Tổng Tư lệnh đi Bình tây quân sứ, chỉ huy đánh giặc Tàu Ô, bị địch bắt và giết. Lúc đương thời, ông có công cùng dân làng đắp đập Kỵ, ông hiến đất cho dân đào giếng để lấy nước uống. Đến thời vua Khải Định, dòng họ có quan Hàn, nhưng không ra làm quan ở nhà mở trường dạy học. Ngày nay nhiều thế hệ nối tiếp tổ tông, làm rạng danh cho dòng họ, cho quê hương và đất nước.
Họ Nguyễn Viết (Triết).
Gốc từ Thanh Hoá vào Hoàng Mai, đến nay có 11 đời, 250 suất đinh. Thời vua Tự Đức, vào năm thứ 5 và năm thứ 15, có ông Nguyễn Viết Phú (còn gọi là Nguyễn Xuân Xương) đậu liền hai bằng tú tài, làm quan cử nhân tri châu đôn giản Nguyễn tiên sinh. Ông Đậu Viết Tựu làm đội trưởng Cần Vương chống Pháp. Ông Nguyễn Xuân Thắng làm chánh tổng Hoàng Mai. Ngày nay có nhiều người làm trong các cơ quan Đảng và Nhà nước.
Họ Nguyễn Văn (Hiêng).
Gốc từ Thanh Hoá vào Hoàng Mai đến nay được 10 đời. Đến đời thứ 2 có ông tự Phúc Mãn làm chức bách bộ triều Lê. Đời thứ tư có ông Nguyễn Văn Lê làm chức Ngũ trưởng hương binh đội trưởng triều Nguyễn. Đời thứ 5 có ông Nguyễn Văn Trực làm phó lý. Đời thứ 6 có ông Nguyễn Văn Viết làm hương mục, ông Thơm làm hương kiểm. Ngày nay có nhiều người làm trong các cơ quan Đảng và Nhà nước.
Họ Văn.
Gốc từ ngoài Bắc vào Hoàng Mai, đến nay được 13 đời. Đời thứ nhất có ông Văn Sĩ Sáng đậu tú tài thời hậu Lê, không làm quan mở trường dạy học. Đời thứ 3, ông Văn Sĩ Đức đậu tú tài, sinh ra Văn Sĩ Vệ đậu hiệu sinh (tú tài thời Lê Trung hưng), ông Văn Sĩ Vệ cùng với vua Lê Duy Mật chống lại nhà Trịnh nên bị truy diệt. Đời thứ 4 có tiến sĩ Văn Sĩ Giai làm con nuôi họ Hồ (Quỳnh Đôi) có công trong phái chủ chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Ngày nay có nhiều người làm việc trong các cơ quan Đảng và Nhà nước.
Họ Nguyễn Bá.
Họ Nguyễn Bá có nguồn gốc từ Thanh Hoá. Khoảng từ năm 1293-1314, Quận công Nguyễn Phúc Thiện đưa gia quyến vào Hoan Châu (để lại người con cả thờ phụng tổ tiên), dừng lại mảnh đất Trú Kỵ, nơi đây "Tam thập niên nhất thế, ngũ thế đại thần chủ, dân chi phấp thế". Họ có 4 chi, 10 phái, 28 cành.
Vua Trần Anh Tông đưa quân đi đánh Chiêm Thành, Quận công cùng tướng sĩ theo vua đánh giặc, trong trận mạc ông xông pha và anh dũng hy sinh. Hài cốt của ông được hoả thiêu, đưa về quê tổ an táng tại Trường Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Người con thứ 2, Trần Lưu Quân (Nguyễn Phúc Tính) trú tại làng Vĩnh Lộc, sau đó do trận mạc vùng Bắc Quỳnh Lưu diễn ra liên miên, ông dẫn cả làng phiêu tán đi nơi khác. Cụ tổ tự Phúc Trính, theo đường thiên lý vào núi Đồi Đất, ấp Trú Kỵ. Tộc phả chép: "Lai ngã Trú Kỵ thôn, đồi Đất nhất lự quán, dừng chân an cư lập nghiệp theo hữu ngạn sông Mai Giang, tương truyền có mộ tổ kết đinh (khoảng năm 1314 - 1350 thời vua Trần Dụ Tôn), sinh được ngũ nam, nhất nữ". Ông được vua phong tước 'Trần lưu Quận công", con gái được vua ban "Mai Hoa nương công chúa", chùa Bảo Minh do Trần Thiện Tích con cháu nhà Trần sáng lập thờ phật với phái võ “Đỗ Thừa chân đạo huyền Thông”, “khai cư nhất ấp, đắc kỳ ngũ thị tổ, khảo tỷ, nhất gia tế tự thử đinh, đa đinh, đại tộc giả dạ cẩn lập, di đức chu nhân quy tụ”. Thời Nguyễn, có nhiều người làm chánh tổng, lý trưởng, ngũ hương. Ngày nay có nhiều con cháu phát huy truyền thống cha ông, nhiều người tham gia công tác từ cấp cơ sở đến Trung ương.
3. Các làng cổ xưa của thị trấn Hoàng Mai.
Xóm Đò (nay là khối Thịnh Mỹ)
Thời Lê gọi là xóm Đò() chuyên chở hành khách sang sông Hoàng Mai, nằm trên đường thiên lý Bắc - Nam, được bao bọc bởi sông Hoàng Mai. Xóm Đò làm ăn phát đạt được đổi tên là Thịnh Mỹ. Xóm Thịnh Mỹ có giếng Kỵ, giếng được làm từ thời Bắc thuộc, theo hình chữ nhật, xung quanh được ghép gỗ thông đỏ (thứ gỗ chịu nước không bao giờ bị mục), dưới đáy có phiến gỗ dày, to, đặc biệt là giếng làm đúng mắt Rồng nên được gọi là giếng thần: “ẩm hoà, thực đức, tỉnh cương, cõng lạc, thái bình thiên”.
Tương truyền, thời kỳ khẩn hoang ở vùng Hoan Diễn, Uy Minh Hầu Lý Nhật Quang thường lấy nước ở giếng Kỵ để sử dụng cho việc tế lễ. Có bài thơ viết về giếng Kỵ:
“Thanh thuỷ hư trung ẩn địa tàng,
Phương thành thống mộc lập trực hàn
Long Nhãn thi khai thiên niên cận
Cố thôn kỵ tĩnh Mỹ”
Nguyễn Bá Tuấn tạm dịch:
“Nước trong trong vắt mấy từng sâu
Thống gỗ thành vương ghép từ lâu
Mắt rồng ghế mở đến ngàn năm
Giếng kỵ, ấp xưa cảnh đẹp giàu”
Đến thời Lê Lợi khi tiến quân vào Nghệ An lúc đóng quân ở làng Trú Kỵ vẫn lấy nước giếng Kỵ để tế lễ. Ngày nay giếng vẫn còn, nước vẫn trong mát.
Xóm Đò có ông Trần Định, năm 1842, thời Nguyễn (Tự Đức), ông làm sớ tâu vua đắp đập Thiện Kỵ. Được vua chấp nhận, làng huy động sức dân trong vùng đắp đập ngăn mặn, ngọt hoá đồng ruộng tạo thành cánh đồng rộng 100 mẫu. Ông hiến đất cho dân làm giếng mới để lấy nước sinh hoạt hàng ngày.
Khối Thịnh Mỹ nay là làng văn hoá.
Xóm Hào Phú (nay là khối An Thịnh) :
Phía Tây giáp sông Hoàng Mai, phía Nam giáp xóm Đò, phía Đông giáp làng Dị Nậu, phía Bắc giáp xóm Bình An. Dân cư đông đúc, được tách ra 2 xóm Phú An - Phú Thịnh, có quốc lộ 1A đi qua và đường 537B đi Quỳnh Dị sang Cầu Cờn đi về vùng bãi ngang, nối với các các huyện ven biển của Nghệ An. Nơi đây có giếng Học được làm từ thời Bắc thuộc, có đền, miếu thờ thổ thần, nhưng đến nay các di tích đó không còn.
Thời Pháp thuộc, thực dân Pháp cho mở trường Tiểu học Thiện Kỵ tại xóm, trường có giáo viên người Pháp và người Việt dạy chữ quốc ngữ và chữ Pháp (nên dân thường gọi là xóm Học).
Ngày nay khối An Thịnh là làng văn hoá.
Xóm Bình An (nay là khối Tân Phong và Nam Mỹ ) :
Phía Tây giáp sông Hoàng Mai, có đường thiên lý xưa đi qua, phía Nam giáp xóm Hào Phú, phía Đông là đồng Đập Kỵ, diện tích khoảng 4,5ha, đồng đất thuộc loại “thượng đẳng điền”. Phía Bắc giáp Vưu Mỹ. Nơi đây có nhiều di tích lịch sử như đền Bình An, chùa Bảo Minh, đường thiên lý mang đậm dấu ấn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Trong chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đền Bình An là nơi hội tụ ngẫu nhiên” của các vị thần thờ trong khu vực thị trấn được đưa về đây để hợp cảnh “Thiên địa hợp đức” như đền Đò, chùa Long Nhãn, chùa Ông trở thành địa danh “An Thanh, Cảnh Mỹ”.
Ngày nay, xóm Bình An trở thành trung tâm của thị trấn, có trụ sở làm việc của Đảng uỷ, HĐND, UBND, các đoàn thể, có đài tưởng niệm liệt sỹ; có các trường học được xây dựng cao tầng khang trang; giếng Mới đã được tôn tạo. Nay khối Tân Phong và Nam Mỹ được công nhận làng văn hoá.
Xóm Vưu Mỹ (nay là khối Bắc Mỹ) :
Phía bắc giáp đền Vưu (Thọ Vinh) thờ Lý Nhật Quang, cách đền về phía đông 500 mét có nghè Vưu. Nghè do quan Bách hộ chức Nguyễn Châu Phát (cháu thứ ba tổ họ Nguyễn Bá) xây dựng thờ thổ thần của xóm. Xưa còn có các nhà thờ họ: nhà thờ tổ phúc tâm (chi 2 con thứ 2 của họ Nguyễn Bá), nhà thờ cổ kính to đẹp, uy nghi đã bị bom đạn Mỹ phá huỷ. Nay còn nhà thờ họ Nguyễn Duy và Họ Trần Đăng, xây dựng cách ngày nay hơn một thế kỷ. Xóm cũng có một số dòng họ vài chục đinh, nhưng nhà thờ chưa tách khỏi gia trạch (tộc trưởng) như họ Nguyễn Bá…
Đường thiên lý (thiên mã) chạy qua xóm suốt chiều dọc, phía Tây là sông Hoàng Mai (nay là đường nhựa đi lên chợ Chiền và ga Hoàng Mai). Xóm cũng là vùng xen cư, xen canh với Thọ Vinh: các cánh đồng bờ Cao, đồng Nổ. Khối Bắc Mỹ nay là làng văn hoá.
Ngày nay 5 khối: Thịnh Mỹ, An Thịnh, Tân Phong, Nam Mỹ, Bắc Mỹ là trung tâm của thị trấn, có các nhà hàng, khách sạn, nơi trụ sở làm việc của thị trấn và các cơ quan Trung ương, tỉnh, huyện đóng trên địa bàn: Bệnh viện Phong - Da liễu Trung ương Quỳnh Lập, Nhà máy ximăng Hoàng Mai, Công an, Bưu điện, Ngân hàng, Phòng khám đa khoa, trường THPT Hoàng Mai…
Làng cổ Vĩnh Lộc: (thường gọi là Làng Dọc).
Làng Vĩnh Lộc có hai giáp, giáp Hữu Vĩnh và giáp Mỹ Lộc, thời nhà Nguyễn được nâng lên thành làng Vĩnh Lộc (xã Quỳnh Lộc).
Năm Tân Hợi (1371) Hồ Quý Ly vào Nghệ An chiêu dân, vỗ về yên cõi ngoài biên, nhận thấy đây là vùng chiến lược quan trọng bảo vệ Tổ quốc, ông cho xây dựng các thành, đồn bố phòng, làm đường giao thông, nhất là đường thuỷ (kênh Nhà Lê).
Sách "Đại Nam nhất thống chí" viết: “Vĩnh Lộc ở cách huyện lỵ Quỳnh Lưu về phía Bắc 29 dặm, giáp địa giới tỉnh Thanh Hoá; đặt từ năm Minh Mệnh thứ 3, có trại Bà Hoà, kênh Nhà Lê, cảng Xước, núi Xước”. Nơi đây có vị trí quân sự trọng yếu. Từ thời Lê Hoàn, Lý Nhật Quang, Trần Quang Khải, Hồ Quý Ly, Lê Lợi, Quang Trung… đều dựa vào vùng này để chống giặc ngoại xâm. Năm 1285, sau khi chiếm Chiêm Thành, Toa Đô kéo quân từ phía Nam ra xâm lược nước Đại Việt. Tới Nghệ An (kênh Nhà Lê ven Núi Xước), dưới sự chỉ huy của Trần Nhật Duật, nhân dân Nghệ An với tinh thần quật khởi chặn đứng sự tiến công của Toa Đô không cho chúng hợp quân tại thành Đông Đô (nay là Hà Nội) với Thoát Hoan từ phía Bắc kéo sang xâm lược nước ta lần thứ hai. Hai bên kịch chiến đều tổn thất nặng nề, thây chất đầy núi, máu đỏ sông Mai, nên sau này có câu: “Quỳnh Lưu chiến địa - Mai Giang huyết hồng”.
Tộc phả họ Nguyễn Bá cũng viết: “Vĩnh Lộc thử bách trắc”, nhân dân ly tán hết, bỏ làng mạc, ruộng vườn hoang phế. Dân làng Thiện Kỵ ra cày cấy, trồng khoai, làm màu hết cánh đồng làng Dọc. Làng Vĩnh Lộc trở thành một vùng sim, mua cỏ cây tràn ngập. Năm 1964, nhân dân Quỳnh Thiện di dân ra làng Vĩnh Lộc làm ăn, xây dựng quê hương mới.
4. Nghề nghiệp, phong tục thiết chế của làng xã ngày xưa:
Xưa kia đồng ruộng ở Trú Kỵ nhỏ hẹp: đồng Nổ 4 mẫu, đồng Muôi 4,5 mẫu, đồng Đò 3 mẫu… Qua quá trình khai phá tạo nên các cánh đồng: Đồng Càn, đồng Lèn Cụt, đồng Làng Dọc, đồng Khoai… Những cánh đồng này thường là ruộng bậc thang, tưới tiêu hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên. Đến thời Nguyễn, công cuộc khai hoang được đẩy mạnh. Thời vua Tự Đức (1848 - 1883), triều đình phê chuẩn cho ông Trần Định (quan Hàn) mộ dân làng Thiện Kỵ đắp đập Kỵ ngăn mặn tạo ra hơn 100 mẫu, cùng với vùng đập Mùa (nửa trên), vùng đất thuộc dạng thượng đẳng điền. Năm 1925, ông Đậu Khuyến chiêu tập nhân công đắp đập Đá Chiêng, cầu La Man, Chùa Ông Bạc. Ông Chánh Khơn (Nguyễn Bá Đỉnh) mộ dân đắp đập La Ga. Nhờ "thiên thời, địa lợi" trên vùng Trú Kỵ đã xuất hiện nhiều ngành, nghề.
Nghề nông: Xưa có 2 vụ chính (vụ 5 và vụ 10), hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên. Để cơ cấu mùa vụ hợp lý, vụ 5 bắt đầu từ tháng 11 (âm lịch), sau khi thu hoạch lúa mùa xong, người dân tiến hành cày ải, bừa kỹ, vụ này chủ yếu trồng khoai lang, xen các giống đậu, tỉa ngô trên các cánh đồng Khoai, đồng Đò, đồng Làng Dọc, vùng cao đồng Càn, đồng Lèn Cụt. Sau 3 - 4 tháng thì thu hoạch khoai, năng suất thấp lúc được mùa cũng chỉ đạt khoảng 60 – 70 kg/ sào.
Vụ 10 khó làm, sau khi thu hoạch khoai xong đất được lật lại bừa kỹ, nếu có độ ẩm sẽ gieo tỉa lúa, giống lúa chủ yếu là lúa Cút, lúa Cằm… Nếu làm trên nền đất thịt thì phải bắc mạ, thời tiết thuận lợi thì: “mưa tháng 3 ra mọi việc”, nhà nhà, người người thi nhau cấy dắm, tháng 6 - 7 (âm lịch) không có mưa, gió Lào làm cho cây lúa xác xơ, nhìn đồng lúa chỉ cần một mồi lửa nhỏ sẽ thiêu trụi cả cánh đồng. Nhưng sau đó có mưa, chỉ cần một trận mưa rào, qua đêm cánh đồng lúa đã hoá xanh, lúa non mơn mởn, con người lại làm cỏ, cấy dắm lại những nơi lúa đã chết. Các giống lúa được tuyển chọn qua nhiều thế hệ phù hợp với đồng đất quê hương, chịu hạn, chịu úng lụt, chịu gió bão… lúa Cằm làm ở vùng đất cao, lúa Cút làm nơi đất thịt chịu úng, gió bão… Các loại lúa nếp làm ở đất “thượng đẳng điền”, thơm ngon dùng cho lễ tết, cúng thần, cúng tổ tiên và sau cùng mỗi người cùng hưởng.
Sản xuất phụ thuộc thiên nhiên, một năm 2 vụ, nhưng thu hoạch chẳng đáng kể là bao:
Ba năm đại hạn khô đồng
Lúa không, khoai hết còn mong nỗi gì
Ông trời, ơi hỡi ông trời
Chẳng thấy mấy đời có lụt tháng Tư
Làm cho mùa mất, khoai hư
Đỗ thì mọc nấm, lúa dừ nổi trôi.
Ngoài cấy lúa, trồng khoai, nhân dân làng Thiện Kỵ còn phát nương làm nại trồng chè xanh, trồng cây ăn quả chủ yếu là chuối ngự. Chè xanh vùng Hoàng Mai thơm ngon nổi tiếng. Tiêu biểu như nại của ông Nguyễn Bá Hành ở Rú Đất, nại của ông Nguyễn Viết Phi ở Khe Mây, nại của ông Phan Đức Duột ở Khe Dũ, nại Rú Mỗi của ông Phùng, ông Đình. Các nại trồng dâu nuôi tằm ở chân núi đá vôi hoặc các thủng của dãy núi như nại ông Nguyễn Văn Vinh, Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Bá Chiếng.
Mặc dù vậy nhưng cuộc sống vẫn thiếu thốn, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc.
Đi đôi với nghề trồng trọt là nghề chăn nuôi ở nơi “cận sông, cận núi”. Là trung tâm giao thông - kinh tế… nên việc chăn nuôi, đánh bắt diễn ra phong phú, đa dạng. Các hộ đều nuôi gia súc, gia cầm, giống lợn chủ yếu là lợn Cỏ, lợn Mường nhưng trọng lượng kém, xuất chuồng chỉ đạt từ 40kg đến 50kg/con/năm. Gà có gà ri, gà cỏ, vịt cỏ… các hộ đều nuôi để bán hoặc làm thịt khi có công việc, cúng ông bà tổ tiên, làm lễ dâng các thần. Nguồn thức ăn cho gia súc, gia cầm chủ yếu là tự cung, tự cấp: nước vo gạo, tấm, cám, mắm, ruốc nhưng rất hạn chế. Nhờ “cận núi, cận sông”, nên một số hộ khá giả bỏ vốn chăn nuôi trâu, bò. Có hộ nuôi hàng trăm con như cụ Hội nuôi ở đồng Sặm, rú Xước… thuê người trong vùng chăn dắt thoả thuận với nhau “giữ gốc, sinh lợi, chia đôi, ưu tiên người nuôi”.
Các hộ ở ven sông, tuỳ lúc nước thuỷ triều lên xuống để làm các nghề: đóng đáy, quăng chài…
Nghề đóng đáy: Đáy được làm bằng các tấm lưới ghép lại với nhau theo hình phễu, phía trên to rồi thon nhỏ dần cho đến tận đáy (sát đất). Đáy được giữ vững bằng những cọc tre vững chắc găm xuống dòng sông, cọc nhiều hay ít là tuỳ thuộc vào đáy to hay nhỏ và theo độ rộng hay hẹp của dòng sông. Trên một dằm đáy có một ngọn đèn chai (đèn dầu để trong chai lọ), nhằm báo cho các phương tiện lưu hành trên sông và có tác dụng dụ cá vào đáy. Thú vui của nghề:
Đêm khuya thắng ngọn đèn chai
Quen o (cô) nốc (thuyền) đáy ăn loài cá tươi
Ngoài nghề đáy có te, quăng chài, đăng, vó… trên dòng sông Mai.
Nghề quăng chài: Dùng thuyền chèo đến vị trí theo phán đoán cá sẽ tụ tập hay đứng trên bờ thấy cá tụ tập, quăng một nhát chài có thể bắt được hàng cân cá. Nhiều hộ dựa vào các lạch be bờ đắp đầm thả cá, nuôi tôm cua như gia đình ông Nguyễn Bá Hịa, Nguyễn Duy Huồn, Nguyễn Bá Cuôn.
Nghề đăng: Nơi có bãi lạch (lạch ông Lộc Chài)… Đăng là một tấm tre được chải chuốt ghép lại. Tuỳ theo lạch rộng, dài để làm đăng; theo nước thuỷ triều lên xuống để đặt đăng chắn cá. Nước thuỷ triều rút, tôm, cua, cá các loại được gom lại ở lạch, có lúc có những con cá vược nặng vài kg cũng không thoát được.
Nghề rèn: được du nhập từ Hà Tĩnh ra do họ Phan đưa về, trước đây ở Quỳnh Lộc, sau đó con cháu Phan Châu, Phan Đào, Phan Thế, Phan Trênh lên mở lò rèn ở làng Thiện Kỵ. Các ông đã truyền lại nghề cho nhiều người trong làng như ông Nguyễn Công Mởn, Nguyễn Công Biên, Nguyễn Viết Trại.
Nghề nung vôi: Tận dụng lợi thế giao thông thuận lợi thông thương, lại sẵn có nguyên vật liệu tại chỗ như núi đá vôi, rừng rậm rạp làm nguyên liệu đốt, với lợi thế đó, ông đội Vinh sau khi mãn hạn lính trở về quê, đã học được cách nung vôi, cùng một số người mở nghề. Ông Trần Đức Tiềm vào Yên Thành thuê thợ về phá đá. Các lò vôi được mở theo vùng gần nguyên liệu, dễ tiêu thụ. Các lò được dựng lên ở Hói Mên, Cửa Trấu (Thọ Vinh - Quỳnh Vinh), Thung Vít (Quỳnh Lộc)… Nghề thu hút được nhiều lao động, đêm ngày thuyền chở củi, bổi tấp nập qua lại trên sông Hoàng Mai, kênh Nhà Lê.
Nghề khai thác đá vôi xuất hiện, mở ra một số ngành nghề mới như nghề tạc đá, đá tảng kê nhà, cối giã gạo, trục lúa… Các ông làm nghề này như ông Đậu Ban, ông Don, ông Duật, ông Mên...
5. Thiết chế làng, xã:
Trú Kỵ - Thiện Kỵ là đất có học, thiết chế làng, xã được cơ cấu:
Các quan viên chức sắc: Các quan về hưu, các bậc văn võ, các cựu chánh, phó tổng hưu và đương chức, các cựu lý trưởng và phó, các cửu phẩm, bá hộ (người giàu mua chức), hàng ngũ hương, sau 3 năm đương chức không bị can án gì đều được tham gia “Hội đồng kỳ mục”, đứng đầu Hội là những người có tuổi cao, chức vụ và phẩm hàm cao nhất trong làng, xã. Hội đồng có quyền hạn làm tham mưu, cố vấn cho những người đương chức và ra những quyết định hệ trọng của làng: Đắp đê, tế lễ, việc công, việc tư… nếu chưa được các quan viên, chức sắc thông qua thì việc đó coi như không xong.
Sau quan viên là lý dịch đương chức: gồm lý trưởng, phó lý và ngũ hương.
Lý trưởng là người đứng đầu của làng, xã. Thời Lý, Trần gọi là hương trưởng, thời Lê là xã trưởng, thời Nguyễn là lý trưởng. Lý trưởng do dân bầu, nhưng chỉ bầu nam. Năm Thành Thái (1907) quy định: “Tất cả các dân đinh trong hộ tịch của làng đều được dự và bầu chánh, phó lý. Người được bầu phải có “gia sản túc, cần cán khả khan, quốc ngữ, Hán tự khả thông” (nghĩa là gia đình giàu có, làm việc cần mẫn, thông thạo chữ quốc ngữ, chữ Hán). Ngoài ra lệ đó còn quy định thêm “người nào làm việc đủ hạn 9 năm, sẽ được hưởng cho hàm bá hộ, sau đó 5 năm cho thăng một lần. Làm việc được 3 năm trở lên mới cho trừ dịch (không phải làm phu phen tạp dịch)().
Giúp việc cho chánh, phó lý gồm:
Hương bạ: Trông coi việc sinh, tử, giá thú, quản lý văn khố.
Hương kiểm: Coi việc trị an, tuần phòng giám sát về mặt hành chính trong làng.
Hương bản: Giữ quỹ và các tài sản chung của làng.
Hương mục: Phụ trách đường xá.
Hương dịch: Trông coi việc tế lễ, đình đám, cắt đặt theo dõi các phần việc của làng như hội họp, đình đám, ăn uống.
Năm 1939-1940, có thêm chức hương kiểm (kiểm thú), theo dõi việc chăn nuôi gia súc và sát sinh.
Bộ máy làng, xã được hoàn thiện vào những năm đầu thế kỷ XX. Năm 1921 có cuộc cải lương, hương chính, quy định bộ máy quản lý làng, xã. Theo đạo dụ ngày 13-6-1923 do triều Nguyễn quy định: “Chỉ có họ (bộ máy làng, xã) là có uy quyền và trách nhiệm thi hành mệnh lệnh quan trên trong nhân dân”. Năm 1927, chính quyền thuộc địa nửa phong kiến đưa ra một quy chế mới. Cơ chế này có sự chiếu cố đến truyền thống của dân tộc, nhưng vẫn sát đúng với tình hình thực tế của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, nhất là đối với dân Nghệ An.
Sau bộ máy làng, xã là các chức dịch (dịch mục) để thừa hành công việc của làng, xã. Hàng ngũ này không được nhà nước công nhận. Đó là giáp có vai trò quan trọng thực thi thừa hành công vụ mà Hội đồng hào mục giao phó các việc như lo tổ chức các đám ma, đám rước, lo các lễ vật khi làng tế lễ, hoà giải các vụ việc trong giáp, đốc thúc thuế, phu phen đi lính. Chỉ nam giới mới được đứng đầu giáp; 18 tuổi nam giới được vào làng, sau đó được vào đinh lên tráng và có chỗ ngồi mỗi khi có việc làng.
Làng, xã có quyền bán chức, “chạy lão, chạy nhiêu, chạy trùm” để sử dụng vào công việc tu sửa dựng mới đình đền, lễ hội, chạy kiện… nhưng không phải chức nào cũng được miễn thuế, phu phen tạp dịch là do quy ước của làng. Nếu đã mua chức thì ít ra cũng không phải làm xeo mõ, dọn đường, làm thịt, bưng mâm, rước kiệu… Tuỳ theo chức, họ vẫn được ngồi chiếu trên (mặc dù chưa đến tuổi quy định của làng), được bàn bạc những việc trong nội bộ làng, xã… Tuỳ theo tính chất, mức độ công việc mà họ được ngồi.
Tóm lại: Làng xã là cơ quan hành chính cuối cấp của xã hội thuộc địa nửa phong kiến của Việt Nam. Nơi đó giải quyết mọi vấn đề “ý nguyện của người dân”.
II. Giá trị văn hoá - phong tục tập quán:
1. Tôn trọng người già:
Điều 8 Hương ước làng Thiện Kỵ soạn năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) viết: “Hương đảng mặc như xỉ”, trong làng tuổi tác là hơn hết. Gần đây đã có ý thức về việc này trong yến ẩm nhưng chưa định thành lệ. Làng đã định rằng cứ ba năm khai tịch một lần vào tháng Giêng. Từ nay phải lấy tuổi tác hơn kém mà quy định trật tự ăn ngồi, 80 tuổi trở lên mỗi cụ một cỗ, 70 tuổi trở lên 2 cụ một cỗ, 60 tuổi trở lên 3 cụ một cỗ. Đối với khoa bảng thì tiến sỹ, phó bảng đối đãi ngang cụ 90 tuổi, cử nhân ngang cụ 80 tuổi, tú tài ngang cụ 70 tuổi. Có phẩm hàm như bá hộ cùng cai tổng xem ngang 60 tuổi. Tất cả các vị trên đây xếp ngồi giữa đình. Từ 50 tuổi trở lên xếp ngồi hai bên tả hữu theo thứ tự tuổi tác. Những người có trách nhiệm trong thôn phải khăn áo chỉnh tề, đem trầu rượu vào nhà rước các cụ ra đình và sắp xếp chỗ ngồi theo thứ tự để hành lễ. Khoa bảng và các cụ cao tuổi nhất là chính yếu, viên chức và các cụ cao tuổi khác là bồi yến để cùng nâng chén và thưởng thức ca hát suốt ngày. Các cụ ra về thì chấp sự đưa chân ra tận cổng đình. Việc này hệ trọng không được sơ suất.
Điều 9: “Các cụ đến tuổi 60, 70 tổ chức mừng thọ tại đình. Tiệc mừng xong, các lý dịch và người cao tuổi khăn áo chỉnh tể, đem trầu rượu tiễn chân các cụ về tới nhà. Các cụ đến tuổi 80 - 90 thì khi đến đưa đón phải có lọng xanh và võng cáng để biểu thị lòng tôn kính đối với tuổi tác và chức tước, nêu gương đẹp trong làng”.
Trước Cách mạng tháng Tám, do nhiều yếu tố tác động, bình quân tuổi thọ chưa đầy 40 tuổi, bởi vậy các cụ sống đến 60 tuổi là khá lắm rồi. Cho nên đến 60 tuổi họ đã là “nhì thuận”, “chế quan y” (đóng quan tài) và không phải “trụ tượng ư hương” (không phải gánh vác việc làng, việc vua quan và đóng thuế thân).
Yến lão, mừng thọ là một tập tục cổ truyền, một ngày hội đầu xuân chứa chan tình cảm, biểu hiện truyền thống “kính lão đắc thọ” của quê hương. Phong tục này cũng gây nhiều tốn kém không cần thiết, nhân dân đóng góp nhiều tiền của để chi cho các cuộc yến. Ngày nay yến lão, mừng thọ vẫn được duy trì và do Hội Người cao tuổi tổ chức, được sự quan tâm của Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và Mặt trận trận tổ quốc cùng các đoàn thể. Hàng năm Hội vẫn tổ chức yến lão mừng thọ cho các cụ, tổ chức vui vẻ có tặng phẩm cho các cụ cao niên theo quy định của trên.
2. Cổ vũ việc học:
Từ xưa đến nay, không những gia đình mà cả cộng đồng dân cư thị trấn vẫn khuyên con cháu chăm học và giữ gìn nhân cách. Nhà nhà đều muốn con đi học, học để làm người, học để biết lễ nghĩa và ít ra cũng biết đọc, biết viết, trước hết là biết cúng gia tiên. Bởi vậy, những người đi học được mọi người quý trọng gọi bằng những cái tên tôn trọng đó là anh học, anh nho và nếu đã được đi thi, dù chưa đậu vẫn gọi là anh khoá.
Người đi học, được miễn phu phen tạp dịch, khi đủ tuổi gánh vác việc làng, việc nước (18 tuổi) được miễn thôn dịch và quan dịch. Đến 18 tuổi vào hội tư văn, không phải đóng góp một khoản lệ phí nào, nếu có đóng cũng ít. Xuân thu nhị kỳ được dự lễ tế các bậc tiên hiền, các bậc khoa bảng tiền bối trong làng, trong xã. Hội tư văn được dự tất cả các ngày lễ ở làng, tú tài trở lên được dự hàng tổng.
Đối với những người đỗ đạt được làng, xã đón rước vinh quy, vì học đã đem lại vinh dự cho làng. Hương ước của làng ghi trong điều 5: “Thi hương, thi hội trong làng có ai trúng tuyển, khi có thư mừng (giấy báo) thì nổi trống đình để mọi người biết. Ngày vinh quy thì kỳ hào, lý dịch cờ trống nghênh tiếp. Tú tài thì đón ở đầu làng; cử nhân, phó bảng thì rước từ điểm Yên Quỳnh. Được ân tứ tiến sỹ xuất thân, cập đệ thì rước từ địa phận Bèo Hậu. Đối với quan võ có sắc phong thì tổ chức đón tiếp gần xa, từ đâu cũng lấy địa mốc phía bên quan văn làm chuẩn”().
Người đỗ đạt được làng mừng và giúp đỡ ăn khao, được làng yết cáo với thành hoàng. Khi đã vọng làng, ăn khao và yết cáo được ngồi chiếu trên theo điều 8, tuỳ theo chức vụ, hàm bậc cao thấp và được làng biếu ruộng theo chiếu hạng. Những người có đức độ, nếu bị kẻ khác lăng loàn, làng cho người bảo vệ; lúc qua đời được các quan viên chức sắc mặc áo lễ, đội mũ trắng đến nhà làm lễ và khi tống táng được đưa tiễn đến tận huyệt mộ để tỏ ý hậu đãi người có chức tước khoa bảng qua đời. Sau đó tuỳ thứ bậc mà vào văn tự tế ở làng và nếu không có con thì được tế ở nhà Từ Vũ, nếu người đó lúc sống có nhân cách trong sạch.
Nhờ có hương ước mà các con em ở Thiện Kỵ đua đòi học để thành tài, thành người mang vinh dự cho bản thân, cho gia đình, làng xã.
Ngày nay việc khuyên răn con cái đã được xã hội hoá, đảng uỷ, chính quyền có Nghị quyết, quy định thưởng cho những học sinh đỗ đạt, tuỳ theo mức để khen thưởng; xã có hội khuyến học, các dòng họ có quỹ khuyến học để động viên những em học giỏi, học sinh vượt khó học tập. Ngày nay con em thị trấn Hoàng Mai luôn đứng đầu về học giỏi và đỗ đạt vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp nhất cả vùng Bắc Quỳnh Lưu.
3. Tương trợ giúp đỡ nhau trong làng xã:
Sự giúp đỡ lẫn nhau về tinh thần, vật chất giữa những người trong cộng đồng làng xóm, nhất là trong gia tộc, những khi gặp hoàn cảnh éo le đột xuất, khi tắt lửa tối đèn đều có nhau, đó là sự giúp đỡ tương trợ lẫn nhau không hề tính toán, là tình cảm tự nhiên có truyền thống lâu đời ngay cả với những người xung quanh.
Mỗi khi trong làng, xóm ai bị ốm đau, tai nạn bất ngờ thì cả làng đến thăm, nếu cần thuốc men như củ gừng, thanh quế, chút mật gấu, tiền chạy thuốc… hay phải mời thầy đi lấy thuốc, cáng đi viện… đều có chòm xóm giúp ngay, không bao giờ từ chối. Truyền thống nhân ái, lối sống yêu thương, tương trợ lẫn nhau của làng được đúc rút từ truyền thống Việt Nam, truyền thống phương Đông. Truyền thống đó được đúc rút thành triết lý cổ truyền trong văn hoá dân gian, “sống có nghĩa, tình”, “lấy lẽ phải làm khuôn phép”, trong nghĩa vừa có tình, có ân. Đó là đạo lý “tình làng nghĩa xóm”, được mọi người dân tâm niệm, vì ai cũng nghĩ rằng “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Câu này nhắc nhở những ai khá giả không nên bạc ác, kiêu căng, tự phụ, coi khinh người nghèo, hãy sống nhân hậu vì biết đâu có lúc mình sẽ nghèo đói.
Không những vậy, để giúp nhau “một cây làm chẳng lên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, nên trong xóm, trong làng, hình thành lên phường làm nhà, lợp nhà, ghép sân, phường cưới dâu, phường ăn thịt Tết…
Phường nhìn chung mang tính chất tự phát, không bắt buộc. Tuy vậy, mỗi khi có việc, phường dựa vào tình hình thực tế của các thành viên, dựa trên cơ sở dân chủ, ai cần giúp đỡ trước, ai cần giúp đỡ sau, cứ thế luân phiên nhau từ nhà này đến nhà kia, có lúc cần một lúc hai hoặc ba nhà nhận. Ngoài ra còn các phường hội khác như hội bóng đá, hội khuyến học, hội đồng môn, đồng tuế…
Tất cả các phường hội đều toát lên một điểm là mang tính cộng đồng cao, đoàn kết, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Nó thể hiện cuộc sống của xã hội nông nghiệp, nặng về tự cung tự cấp, cưu mang nhau khi cuộc sống còn khó khăn. Đó là nét đẹp văn hoá đáng quý.
4. Việc hiếu, hỷ:
Việc hiếu: Khi trong gia đình có người qua đời, sau khi đã làm các bước ban đầu, tuần tự đến lễ khâm lượm, nhập quan, lễ thành phục, lễ cúng cơm, lễ thổ thần khi đã chọn đất để đào huyệt, lễ này được thầy địa lý xem nhưng cũng đơn giản chỉ be rượu và một ít trầu cau rồi cáo thổ thần khi đào huyệt. Tiếp đến là lễ lập đòn, tuỳ theo quy định của xóm, ít nhất là 8 người, đông hơn nữa tuỳ theo dân số ở xóm 12 người hoặc 18 người… Lễ dẫn có cờ tang, trướng điếu, minh tinh, linh xa, nhà táng, trống kèn. Đám tang nhà giàu có bát âm, phường tướng dẫn đường toạ huyệt… Lễ hạ huyệt thường chọn giờ hoàng đạo. Tế phần mộ, sau khi phần mộ được đắp xong, gia chủ bày lễ trước linh phần mộ và tế thổ thần.
Lễ chầu thổ: Yết cáo với tổ tiên để thiết lập bàn thờ trong nhà, sau khi đã chôn cất xong người thân trở về. Thông thường người mới qua đời, họ lập bàn thờ ở gian bên cạnh, khi đoạn tang mới làm lễ xin phép tổ tiên cho thờ chung với các vị ở gian giữa.
Lễ 3 ngày, 50 ngày và lễ 100 ngày sau đó là giỗ tiểu tường năm thứ nhất, đại tường năm thứ 2 và lễ đoạn tang .
Việc hỉ (cưới hỏi): Đôi trai gái tự do tìm hiểu, nhưng ngày xưa “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”, nếu đồng ý sẽ được tiến hành theo tuần tự:
Lễ dạm hỏi: sau khi hoàn thành việc tìm hiểu, nhà trai chọn ngày lành tháng tốt đem lễ vật đến nhà gái, nếu nhà gái ưng thuận thì đặt lễ vật lên bàn thờ kính cáo tổ tiên.
Lễ ăn hỏi: lễ vật bao gồm trầu, cau, rượu, bánh trái, xôi, thịt. Nhà gái nhận lễ tức là đã ưng thuận gả con.
Lễ xin cưới (thỉnh kỳ): ngày lành, tháng tốt, hợp tuổi hai bên nam, nữ. Nhà trai báo cho nhà gái biết, nhà gái bằng lòng, nhà trai đem lễ vật đến, nhà gái nhận lễ. Sau khi bàn bạc xong, hai bên thoả thuận định ngày cưới cho hai con, nhưng phải tuân theo tục lệ của làng.
Điều 6, Hương ước của làng ghi: “Nam, nữ đến tuổi lấy vợ, lấy chồng, muốn lập gia thất thì chủ hôn đem lễ vật đến đình gồm: tiền, cau, rượu. Người làng thì nạp 1 quan 2 và trầu rượu, người trong tổng thì nạp 2 quan 4 và trầu rượu, người trong tỉnh hay khác tỉnh thì nạp 6 quan tiền và trầu rượu. Tuy vậy, còn tuỳ giàu nghèo, sang hèn mà châm chước sao cho thoả đáng”.
Lễ cưới (vu quy): như đã thoả thuận từ lễ xin cưới, nhà gái nhận đủ những lễ vật do nhà trai đưa sang.
Ngày đón dâu là ngày trọng đại, thật là “trăm năm chỉ có một ngày”. Tuỳ theo điều kiện kinh tế, nhà trai mổ lợn, mổ trâu hoặc bò, hông xôi, gói bánh… làm mâm cỗ để mời bà con, anh em, họ hàng, bạn hữu gần xa đến để dự tiệc cưới. Người đi dự cưới phải có quà “nợ đồng lần”.
Ngày nay, việc hiếu hỉ đã giảm nhiều, nhưng vui vẻ, trang nghiêm, tiết kiệm và không rườm rà tốn kém, lãng phí thời gian tiền bạc.
5-Lễ hội:
Cũng như mỗi làng, xã ở Việt Nam người dân ở Thiện Kỵ xưa kia có những ngày lễ, hội chính hàng năm (thời gian tính theo âm lịch):
- Tết Nguyên Đán: Từ mồng Một đến mồng Ba tháng Giêng.
- Lễ Thượng Nguyên: Rằm tháng Giêng
- Lễ Thanh Minh: Tháng 3 (vào đầu tiết Thanh Minh)
- Tết Đoan Ngọ: Ngày 5 tháng 5
- Tết Trung Nguyên: Rằm tháng Bảy
- Lễ Trừ tịch: 30 tháng Chạp (nếu tháng thiếu thì cúng vào ngày 29)
Ngoài các ngày lễ, tết trên, còn có các ngày giỗ thần (nếu làng thờ nhân thần, biết được ngày của thần mất thì lấy ngày đó làm giỗ), ngày giỗ hậu thần (có nơi kết hợp với Rằm tháng Bảy).
Lễ hội hay còn gọi là ngày đại tế, hội làng, có làng mỗi năm tổ chức một lần (Thiện Kỵ ba năm tổ chức một lần).
Các ngày lễ, tết trong năm đều không bằng Tết Nguyên đán. Đây là Tết cổ truyền to nhất và vui nhất của người Việt.
Ngày 23 tháng Chạp: lễ tiễn đưa ông Táo quân và ông thần Thổ công về chầu Ngọc Hoàng, báo cáo kết quả một năm ở hạ giới làm ăn. Ngày 25 tháng Chạp, tất cả các gia đình đều cắm nêu báo hiệu cho người đã khuất biết đường về và loại trừ mọi thứ ma quỷ.
Ba ngày tết, làng tổ chức các trò chơi: Đấu vật, chơi đu, đánh cờ, đá bóng, đua thuyền …
Đánh cờ tướng (cờ thẻ do người cầm quân, quân đỏ là người mặc áo đỏ, quân xanh là người mặc áo xanh), có trọng tài cho hai đối thủ. Đánh cờ tướng được nhiều người xem và cổ vũ cho đối thủ của mình.
ở sân đình, cờ tướng, bài chắn (tổ tôm)… đối với nam giới, bài tam cúc, đánh dồi… cho phái nữ, cả sân đình náo nhiệt, vui vẻ.
Ngày Tết, đường sá sạch sẽ, phong quang, các cụ cao niên quần áo chỉnh tề, đầu đội khăn xếp tới từ đường (nhà thờ họ) yết và tế tổ, thăm hỏi anh em, chú bác, bạn bè bằng hữu. Các trẻ thơ xúng xính trong bộ quần áo mới, dép guốc nhí nhảnh; trong bao rủng xrỉnh mấy đồng tiền chinh, tiền kẽm của người thân mừng tuổi.
Sau Tết có nhiều tục lễ như hạ nêu, khai bút đầu năm “tân niên khai bút, bút khai hoa” của những người có học. Các tập tục đầu năm như “động cối, động chày”, tức là xay lúa, giã gạo mong cho nhiều thóc gạo; “bắt ách trâu bò để thắt chặt mối quan hệ giữa người nông dân với con trâu, con bò, cùng người vất vả quanh năm “ta đây trâu đó, ai mà quản công”. Với bao bề bộn công việc sau Tết, lễ họ tiểu chi, trung chi đến đại tộc, họ ngoại… tiệc bánh nguội đến việc dạm vợ gả chồng, yến lão, rằm tháng giêng, “cả năm được Rằm tháng Bảy, hết thảy có Rằm tháng Giêng"… Và “xuân khứ xuân lai”, mọi công việc trở lại bình thường trong mọi gia đình, người đi, người ở, ai lo việc nấy, với bao toan tính để có bát cơm, manh áo.
Là một miền quê sông nước, nên hàng năm làng có tổ chức hội đua thuyền trên dòng sông Mai. Mỗi mạn thuyền có 6 người, cầm dầm đuôi thuyền có 2 người chèo. Sau khi cáo thần xong một hồi trống lệnh xuất phát dóng vang, 12 tay dầm tung xuống nước cùng một lúc, nhanh gọn và dứt khoát. Trên đường đua mõ trống thúc dục, cờ phất, dầm khoát nước lái dần thuyền lướt và cùng thúc quân. Hai bên bờ sông dân làng đứng xem vỗ tay reo hò vang dội. Dọc đường đua gặp các đình, đền miếu, các tay đua nâng dầm lên cao hướng vào đình đền, miệng hô “dạ, dạ dạ” để tỏ ý bái tạ rồi tiếp tục cuộc đua tài. Thuyền được giải, trước lúc nhận giải bằng hiện vật phải vào đình đền bái tạ. Lúc trao giải, pháo nổ vang làm cho buổi đua thêm tưng bừng náo nhiệt. Những năm nắng hạn, cả tổng Hoàng Mai tổ chức đua thuyền để cầu mưa, mỗi làng một thuyền, cách đua và hình thức tổ chức đều theo một nguyên tắc riêng. Khi cuộc đua bắt đầu, làng Nhị Yên (Quỳnh Trang) được giao trách nhiệm vãi nổ ở Vực Mấu (nay là lòng hồ Vực Mấu), bởi vậy có câu:
Bao giờ hàng tổng đẩy lé ra khơi
Nhị Yên vãi nổ thì trời mới mưa
Lễ hội đua thuyền mang ý nghĩa cầu “phong hoà, vũ thuận”, cầu trời, cầu đất mưa thuận gió hoà, được mùa lúa cá, dân đầy đủ ấm no.
6- Thờ phụng
Thờ phụng tổ tiên, con rồng cháu tiên là một nét đẹp trong cộng đồng dân cư Việt Nam nói chung, thị trấn Hoàng Mai nói riêng. Trải qua hàng ngàn năm, việc thờ phụng tổ tiên qua nhiều thế hệ, đã là người phải biết ơn nghĩa sinh thành, công nuôi dưỡng của cha, mẹ, phải có hiếu với cha mẹ, với ông bà, tổ tiên. Cây có gốc mới có cành xum xuê hoa lá. Nước có nguồn mới có biển rộng sông dài, con người có tổ tiên mới có mình được. Các họ bắt đầu của cuốn gia phả đều ghi “thiên lưu vạn phái thuỷ đồng nhất nguyên, thiền kha vạn diệp mộc đồng nhất căn", nghĩa là: nghìn dòng, muôn lạch, nước cùng một nguồn, ngàn cành vạn lá, cây cùng một gốc; “ẩm hà tư nguyên” (uống nước nhớ nguồn), bỏ tổ tiên, không thờ phụng tổ tiên, tức là quên nguồn gốc là bất nghĩa, bất nhân. Bởi vậy, việc thờ phụng tổ tiên là giá trị tinh thần nhân văn cao cả, là niềm tự hào “họ ta” “tổ tiên nhà ta”, đó là sự gắn bó của huyết tộc.
Trên một mảnh đất nhỏ, có rất nhiều nhà thờ họ, thờ những người có công đức đỗ đạt, ghi tạc tấm lòng trở về cội nguồn của con cháu, làm rạng rỡ cho các thế hệ con cháu noi theo, kế tiếp.
Những họ lớn có nhà thờ riêng, những họ chưa có nhà thờ họ thì nhờ nhà trưởng tộc. Các tục tập của làng có thể bị bãi bỏ, nhưng các ngày giỗ họ, tế tổ, xây dựng nghĩa trang họ, tu sửa nhà thờ, đi tìm gốc tích của dòng họ và tìm những cành nhánh thì không bao giờ bỏ. Có những cụ cao niên không quản đường sá xa xôi đã vào nam ra bắc, quyết tâm tìm cho được gốc tích của mình.
Nhà thờ họ không những là nơi thờ phụng tổ tiên mà còn là nơi tập hợp các thành viên trong họ, duy trì các mối liên kết về tình cảm huyết thống, về tôn ti trật tự cành nọ chi kia, tương trợ giúp đỡ nhau.
7- Thờ cúng Thành hoàng
Thờ Thành hoàng có 2 loại: Thiên thần và nhân thần.
Thị trấn Hoàng Mai thờ thiên thần “Huyền thiên đại thánh” ở đền Làng (đền Đò, trong chiến tranh chống Mỹ, đền bị đánh phá, chuyển về thờ ở đền Bình An) và đền thờ thổ thần ở xóm Vưu Mỹ, Thịnh Mỹ.
Nhân thần có “Tam công đại vương Lý Nhật Quang” đền thờ ở xóm Bình An, thờ con trai thứ 8 của Lý Công Uẩn, người có công khai phá vùng Nghệ An nói chung, Quỳnh Lưu nói riêng. Đền thờ tiến sỹ Lê Duy Quỳnh thờ ở đền Hiền Từ, người thi đỗ tiến sỹ đầu tiên của huyện Quỳnh Lưu. Bia ghi chép về tiến sỹ có đoạn: "Ông theo nghiệp học, ngày một tiến bộ, đến mùa thu thì dự kỳ thi hương… Khoa Quý Mùi thời Phúc Thái thứ nhất (1643) thời Lê Thánh Tông, ông đỗ tiến sỹ đệ lục danh, ứng với chế hợp Canh Thìn năm 31. Ông là bậc chính sỹ Thanh Hoa, làm hiến sát Sơn Tây, tặng hộ bộ tả phù tang…"
Việc thờ Thành hoàng thuộc về giới tâm linh, là những vị thần cai quản thôn, xã có công với làng như khai khẩn đất đai, làm rạng rỡ cho quê hương đất nước, phù hộ cho dân làng được an khang thịnh vượng. Đối với dân làng, Thành hoàng là biểu hiện của lịch sử, phong tục cùng đạo đức, pháp luật là hy vọng của cả làng (có khi là cả một vùng). Thành hoàng được dân tôn trọng như một quyền uy siêu việt, một mối liên hệ vô hình, khiến cho cả làng thành một cộng đồng có tổ chức và hệ thống chặt chẽ.
Nét đẹp của thị trấn Hoàng Mai là địa bàn giao thông thuận lợi, là nơi hội tụ của các huyết mạch giao thông thuỷ bộ xuyên quốc gia. Thời Bắc thuộc, các tôn giáo (Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo) du nhập vào nước ta, thì nơi đây đã xuất hiện nhiều chùa, chiền, miếu để thờ tự.
Nhà Thánh ở thị trấn có niên đại sớm hàng ngàn năm, nhà Thánh dựng lên ở xóm Đò (là nhà Thánh đầu tiên của huyện), trong đó Hội tư văn (những người có học) cùng các tín đồ nho giáo. Hàng năm đến tháng Ba âm lịch, Hội tế Thánh Khổng Tử cùng các môn đồ và các vị khoa bảng của làng; lễ diễn ra vào ban đêm, hành lễ xong trời tảng sáng. Các cụ già cao niên giải thích: tế sớm để tránh ruồi nhặng vì chí thánh thiên sư Khổng Tử, Phu Tử ưa sạch sẽ; xong lễ không gian nhà thánh lại tĩnh mịch. Bởi vậy xưa kia các cụ có câu “Im lìm như nhà Thánh tế rồi”. Thông qua hoạt động của Hội tư văn, tư tưởng nho giáo được truyền thụ đến các thành viên trong gia đình. Đạo Nho khuyên răn mọi người không nên mưu lợi cho cá nhân mà phải quan tâm đến cộng đồng xã hội.
Hương ước của làng Thiện Kỵ do Hội tư văn của làng biên soạn, trong đó có nhiêù điều khoản khuyến khích việc học, ai học hành đỗ đạt được chu cấp ruộng học, đón rước, chỗ ngồi ở làng và có quyền phán quyết mọi công việc.
Nho giáo thịnh hành, đạo phật du nhập sớm. Chùa Long Nhãn (gần cầu La Man), chùa Bảo Minh ởxóm Bình An, chùa Thiên Độ ở Thịnh Mỹ.
Ngày nay trên đất thị trấn còn tồn tại chùa Bảo Minh ở xóm Bình An thờ đạo Phật. Đạo Phật dạy con người phải biết thương yêu đồng loại, sống bình đẳng với nhau. Sau những ngày lao động vất vả, người dân lao động lên chùa cầu kinh, tụng Phật mong để hưởng sự thanh thản, hiểu được lẽ công bằng thương yêu nhau và tin vào sự tu thiện là nhu cầu thiết yếu. Dân làng Thiện Kỵ từ thời Lý đã “lấy điều thiện làm gốc” theo thuyết lý của nhà Phật. Chùa thờ Phật theo phái đạo thừa “tự độ, tự tha, tự giác, giác tha”, khả năng của người tu hành độ cho người khác. Độ tha là biết thương xót mọi người, muốn cứu họ khi họ làm điều ác nhưng chưa chảy máu phật. Đại thừa ngụ ý là một cỗ xe lớn chở nhiều người. Người tu hành theo phái Đại thừa đức đạo sẽ trở thành Phật, phái đại thừa thời Phật Thích Ca là giáo chủ Chư vị phật, chư vị Bồ tát. Tư tưởng xuyên suốt của đạo Phật là “hướng theo cái thiện, từ bỏ cái ác” có tác động tới tâm linh con người nơi đây qua nhiều thế hệ. Ngày nay truyền thống đó đang được khơi trong gạn đục, nhân lên bằng phong trào thi đua xây dựng làng văn hoá.
8- Văn học - Chữ viết
Thiện Kỵ đất hiếu học, có người mở đầu cho nền khoa bảng huyện Quỳnh Lưu. Vùng quê Hoàng Mai có bề dày lịch sử, văn hoá, nhưng tiếc thay, qua những bước thăng trầm của lịch sử, hoả hoạn, binh đao, đạo tặc đã làm mất đi những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể theo thời gian năm tháng. Những gì còn lại qua truyền thuyết, thần phả, các đền chùa, miếu. Đặc biệt là theo gia phả, tộc phả của các dòng họ, văn bia, đại tự, câu đối… nói về họ tộc, về làng còn lại là những di sản quý giá cho hôm nay và cả mai sau.
Hương ước làng Thiện Kỵ nêu gương cái tốt: việc đồng áng, học hành đậu đạt, đối xử giữa con người với con người, nghiêm cấm thói hư tật xấu, rượu chè cờ bạc, đạo đức tha hoá… Gia phả các họ Đậu, Nguyễn, Trần, Hồ, Văn… ghi chép về quá trình lập làng, công lao khai khẩn đất đai, lao động cần cù, thông minh, anh dũng đấu tranh chống thiên tai, địch hoạ của các thế hệ cha ông… Đó là những dòng phổ hệ quý báu, nêu những tấm gương sáng, không những cổ vũ con cháu trong dòng họ mà cả cho mọi người trong cộng đồng hiện tại mà cả tương lai.
Các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần… đã chú ý đến các việc học, nhằm tìm người hiền tài xây dựng quốc gia, việc học đã trở thành quốc sách. Năm 1010, Lý Công Uẩn sau khi lên ngôi đã có chiếu dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long (Hà Nội), sau đó cho dựng Văn Miếu Quốc Tử Giám (đây là trường đại học đầu tiên của nước Đại Việt), tiếp theo là nhà Trần… mở các khoá thi để chọn thái học sinh (tiến sỹ), sinh đồ (tú tài, bảng nhãn, thám hoa…). Lúc này vùng đất Nghệ Tĩnh, kinh tế - văn hóa - xã hội chưa phát triển, kém thua vùng Kinh Bắc (Bắc Bộ) nên số người ở vùng Nghệ Tĩnh chiếm bảng vàng rất ít. Nhưng kỳ lạ thay, thời Trần ở Trú Kỵ đã có người đỗ đạt: Cụ Đậu Yên Thái đậu sinh đồ, làm quan đến chức Thượng thư. Năm Thiên Thuận (1643) thời Lê Thánh Tông (hiệu Tư Thành) có Lê Duy Quỳnh (Lê Quỳnh) đậu tiến sỹ mở đầu cho nền khoa bảng huyện Quỳnh Lưu(). Các di tích, câu đối nói về ông:
Câu đối ở đền Hiền Từ (Bình An)
ái châu luyến thế công thần thổ
Lưu huyện khai khoa tiến sỹ từ
Có những bài thơ ca ngợi ông:
Thửơ xưa Hán học làng ta
Đói nghèo theo học đó là họ Lê
Hái rau, kiếm củi, làm nghề
Nuôi con đèn sách, bảng vàng trên cao
Nhà tranh xe ngựa ra vào
Giúp vua, giúp nước, biết bao công trình
Làm quan án sát xứ Thanh
Công tâm, tạc dạ, án hình chăm lo ()
Chuyện kể về ông: Sau khi đỗ Hương cống (năm Phúc Thái 1, tức là năm 1643), ông ra kinh thi Hội, đến Nam Định (Hà Nam) thì tiền hết. Ông phải vào một nhà bên đường xin ăn. Chủ nhà hỏi lai lịch, ông đáp: "Tôi từ xứ Nghệ ra Thăng Long ứng thi, đường xa không may gặp ốm đau, nên tiền mang theo đã cạn, xin nhờ ngài mở lòng nhân, giúp cho ít nhiều, làm kế độ thân, sau này sẽ đền đáp”. May sao chủ nhà cũng là bậc khoa bảng, làm quan đã về hưu, thấy kẻ ăn xin là Triều sĩ, trông có vẻ khôi ngô, ông bảo: "Ta ra một vế đối, đối được ta sẽ chuẩn cấp cho”. Nói xong ông đọc luôn: "Mễ tận, tiền vô nam tác lạc, nghĩa là: Gạo hết, tiền không khó mà thoả chí. Lê Duy Quỳnh đối ngay: "Thi hưng, lễ lập dị thành tài". nghĩa là: Thi mà phát triển, lễ lập được thì dễ thành tài.
Nghe xong, chủ nhà rất phấn khởi, mời ở lại thết cơm, rượu, khi lên đường cho hai lạng bạc và đoán chắc rằng: khoa này anh sẽ đậu. Quả nhiên khoá ấy Lê Duy Quỳnh đỗ tiến sĩ, được bổ làm quan Hiến sát sứ. Trong lần đến Hà Nam để tạ ơn thân chủ, hai người thù tạc với nhau rất vui vẻ. Nghĩ đến vế đối ngày trước, nhân lúc cảm hứng, ông đọc thêm câu khác: "Lộc cao, vị trọng túc thành vinh”, nghĩa là: Quyền cao, lộc hậu dễ đủ để làm cho mình được vinh hiển. Sau đó, vị quan này gả con gái cho ông.
Đến thời vua Lê Dụ Tông (Duy Dưỡng), hiệu Bảo Thái 1720-1729, Đỗ Nhân Thiêm đậu tú tài; đời vua Lê Huyền Tông (Duy Niên) 1771 có Đỗ Thư đậu Hương cống.
Đất nước loạn ly, hết Trịnh - Mạc, Trịnh - Nguyễn phân tranh, sử sách quốc gia không thấy ghi chép những người đậu đạt. Đến thời Nguyễn, sử sách chép:
án khoa năm Tân Sửu, Thiệu Trị thứ 2 (1842), trường Nghệ đỗ 18 người, Quỳnh Lưu có 4, trong số đó có Trần Định (Trần Tĩnh), người làng Thiện Kỵ thi đậu bổ nhiệm làm quan tới chức Bang biện phòng bị sự, bị giặc đường sông hãm hại, vua truy tặng Hàm điểm tịch.
Khoá thi năm Đinh Dậu, Thành Thái thứ 9 (1897), trường Nghệ đỗ 22 người, Quỳnh Lưu có 4, trong đó có Hồ Nhuận (Hỗ Sỹ Tạo), người làng Thiện Kỵ đỗ tiến sĩ làm quan ngự sử (có người cho rằng ông được bổ nhiệm làm quan tri phủ ở Nam Đàn, tài liệu này chưa được xác minh).
Khoá thi Canh Tý, Thành Thái năm thứ 12 (1900), trường Nghệ đậu 3, Quỳnh Lưu trúng 3, trong đó có Trần Doãn Lương người làng Thiện Kỵ, trong sử không nói gì đến chức vụ.
Dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến, thực dân Pháp “mở nhà tù nhiều hơn trường học”. Mặc dù vậy, nhiều con em ở đất Thiện Kỵ vẫn theo học ở trường tư thục. Năm 1919 thực dân Pháp bãi bỏ học chữ Hán, chuyển sang học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Năm 1920, Thiện Kỵ có trường E Coleg, trường tổng sư đặt ở Hào Phú nay là An Thịnh, những thầy tham gia giảng dạy trước cách mạng tháng Tám hầu hết là từ các nơi khác đến: thầy Dương, thầy Thụ, thầy Tiến, thầy Phan Văn Kiên (Quỳnh Đôi), thầy Trành, thầy Tụng (Sơn Hải)... Những thầy dạy chữ Hán của làng Thiện Kỵ như: Nguyễn Bá Thiệng, Nguyễn Duy, Nguyễn Bá Hân, Nguyễn Bá Tương, Phạm Quang Hân.Thầy dạy chữ quốc ngữ: Nguyễn Bá Nhuận, Nguyễn Bá Cẩn, Nguyễn Bá Chịnh, Nguyễn Bá Thoà, Đậu Phi Quyên..
Theo "Quỳnh Lưu phong thổ diễn ca" của Nguyễn Tiến Bảng sáng tác năm 1921: "Hương trường đặt ở bốn nơi: Quỳnh Đôi, Phú Nghĩa, Hoàng Mai, Phương Cần".
Vùng đất “địa linh nhân kiệt” Hoàng Mai đã hun đúc nhiều người hiền tài:
Ông Trần Định (các tên gọi khác Trần Tĩnh, Khắc ẩn) sinh năm 1816 và mất ngày 14/5/1865 âm lịch, hưởng thọ 49 tuổi. Ông sinh ở xóm Đò – Thiện Kỵ, (nay là khối Thịnh Mỹ, thị trấn Hoàng Mai), trong một gia đình nho giáo, cha là Trần Trữ làm nghề dạy học. Ông Trần Định là Trần Hà làm quan sở chức phụ trách điền địa (ruộng đất) ở tỉnh Nghệ An.
Năm 1842, khoa Tân Sửu Thiệu Trị thứ 2, tại trường Nghệ An tuyển 18 người, Quỳnh Lưu có 4 người đậu cử nhân, trong đó có Trần Định, ông được vua điều vào trường Quốc tử giám để dạy học cho con vua và các quan đầu triều. Do tính tình ngay thẳng, lại bị các nịnh thần dèm pha, ông bị vua giáng chức điều về làm tri phủ Phủ Diễn (Diễn Châu, Nghệ An). Sau đó ông cáo quan về quê. Đối với quê hương, ông luôn trăn trở, suy nghĩ làm gì để giúp dân.
Quê hương ông vùng nước mặn, đồng chua, cận sông, gần biển, muốn làm ra hạt lúa, củ khoai phải trải qua bao bước lao động nhọc nhằn. Có một vùng đất rộng hàng trăm mẫu bị nước thuỷ triều lên xuống không làm được gì, ông làm tờ trình xin quan trên, sau khi được chấp nhận, làng Thiện Kỵ đã huy động sức dân đắp một con đập dài hơn 1 km để ngăn mặn. Cánh đồng Đập Kỵ được ngọt hoá làm ăn có hiệu quả, dân từ các nơi khác kéo đến sinh sống. Nhiều người, nhiều họ đã định cư tại đây. Gần 100 mẫu ruộng Đập Kỵ do làng quản lý, sử dụng phát canh, thu tô ở mức lãi nhẹ, thu vào công quỹ. Qua nhiều năm tích tụ, số quỹ được tăng lên. Từ ngân quỹ đó, làng kiến thiết xây dựng đình làng hai toà 5 gian lộng lẫy, tu bổ đền thờ đức Khổng Tử, gọi là nhà “Thánh”, hai nhà mỗi nhà 5 gian, tu bổ đền thờ Bản cảnh, thờ thần thổ địa của làng và sắm đủ đồ cúng tế trong các đình đền.
Cả làng chỉ có giếng Kỵ nhưng nước không đủ dùng, ông đã hiến đất của mình cho làng đào giếng sau 7 ngày thi công giếng đã hoàn thành có nước mát và ngon, nên đặt tên là giếng Mới. Cả vùng Hoàng Mai, lúc nắng hạn đều dùng nước ở giếng Mới.
Lúc về quê nhờ có văn võ song toàn, ông vẫn được vua trao chức Bang biện phòng bị sự (trấn giữ vùng ven biển lạch Bạng, Thanh Hoá đến Cửa Lò, Nghệ An). Thời gian trấn giữ, chỉ huy chống giặc Tàu Ô cướp phá, ông đã làm cho giặc nhiều phen khiếp vía kinh hồn, giúp dân yên ổn làm ăn.
Để loại trừ thủ lĩnh, địch tìm cách tiêu diệt ông. Đêm 14/5/1865 (âm lịch), giặc Tàu Ô bí mật cho quân vào Cửa Cờn, sau đó ém quân hai bên đường tại Đập Khuyến làng Dị Nậu (Quỳnh Dị). Được tin báo, ông cùng dân binh thẳng tiến xuống lạch Cờn. Chúng để ông đi vào vòng vây, đưa quân áp sát bắt sống ông và một số người mang lên thuyền tiến ra lạch Bạng. Biết ông có tài võ nghệ nên chúng hết lời dụ dỗ, mua chuộc ông, nhưng với chí khí yêu nước, thương dân, ông đã mắng thẳng vào mặt chúng. Dụ dỗ không được, chúng đưa ra tối hậu thư, yêu cầu phải có một ngàn quan tiền nạp cho chúng thì mới được tha. Làng Thiện Kỵ lo gom góp, nhưng thời gian quá ngắn, chúng đã sát hại ông và đưa xác vào bờ cùng một số người bị bắt.
Được tin ông bị giặc giết, làng cử người cùng họ tộc và gia đình ra lạch Bạng đưa xác ông về tổ chức mai táng long trọng, cùng các làng khác trong khu vực tiễn đưa ông về nơi an giấc ngàn thu. Nghe tin, lý trưởng các làng xung quanh, quan huyện, quan tỉnh và nhà vua cử người về phúng điếu.
Ông Đậu Khuyến (Hội Hoàng) sinh năm 1876, mất năm 1940. Sinh trưởng trong một gia đình nho giáo nhưng thiên về nghề nông. Lúc nhỏ, theo học chữ Hán, đã từng lều chõng thi hương, thi hội tam trường, nhưng với làng quê ông luôn “mộc mạc, chân quê”, để lại cho đời, cho người, nơi “chôn rau cắt rốn” những tình cảm sâu động.
Ông giữ nhiều chức tước: Phó tổng, chánh tổng, tuần tổng, hội viên Hội đồng dân biểu miền Trung, nhưng không muốn đi theo con đường chức sắc. Lúc đương kim là chánh tổng, ông lập hội buôn bán tơ lụa từ làng Quỳnh (Quỳnh Đôi) đi Hà Nội, và mang hàng từ Hà Nội về quê hương, tạo ra mối thông thương nơi đô thị với chốn dân quê.
Với thế mạnh của quê hương, ông dựng lò vôi, tạo việc làm cho nhiều người xuôi ngược Bắc - Nam và kinh doanh gạo từ Minh Côi - Thanh Hoá về Hoàng Mai toả đi các xứ. Đấu thầu, mộ phu làm đường Yên Lý đi Phủ Quỳ (Quỳ Hợp), khai thác chế biến gỗ vùng Bến Nghè, cho đấu thầu đắp đê ngăn mặn vùng Dị Nậu - Thiện Kỵ, khai hoang ngọt hoá đập Đá Chiêng - La Man, khai thác tận dụng vùng Thông Bông, Thông Vít, rú Sòi (Quỳnh Lộc), khai phá Đồng Sặm (hồ Vực Mấu) làm đồn điền; đấu thầu khai thác mỏ bạc ở núi Thông Nhọn (Mai Hùng - Quỳnh Trang…), tạo ra việc làm giải quyết hàng ngàn lao động cho quê hương xứ sở, nhưng thành công ít, rủi ro nhiều.
Tâm đắc nhất là lúc ông nghỉ hưu, chuyên lo cho ý định mà ông đeo đuổi. Năm 1925, ông xin nghỉ việc quan, chuyên tâm vào sản xuất kinh doanh. Đầu năm 1930, ông ký kết với chính quyền Bảo hộ xin được khai thác nhựa thông ở núi Tùng Lĩnh (Quỳnh Văn - Quỳnh Xuân), Cầu Cấm (Nghi Lộc - Nghệ An), Nậu Thơm (Quảng Bình).
Tại quê nhà, ông cho dựng xưởng chế biến nhựa thông thành cô-lô-phan, sản phẩm của ông chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước…
Đối với quê hương, ông là người tâm huyết: dựng chợ (chợ ông Hội) tại eo Cổ Bù (nơi cửa hàng bách hoá của huyện thời chiến tranh chống Mỹ), xây cầu ông Hội đi Quỳnh Lộc… Với ông, chỉ có một điều mong ước: quê hương trù phú, dân có việc làm… Những dấu ấn đó đã để lại cho đời sau.
Thị trấn Hoàng Mai ngày nay, xa xưa là Trú Kỵ - Thiện Kỵ, Quỳnh Mai, Quỳnh Thiện, là mảnh đất có thể được gọi là “địa linh nhân kiệt”, con người nơi đây được tắm mình trong truyền thống dựng nước và giữ nước oanh liệt của dân tộc từ đời này sang đời khác, lại được rèn đúc trong hoàn cảnh tự nhiên qua quá trình xây dựng quê hương, đất nước, được ý thức về quyền sống và về vai trò của mình trước vận mệnh của thời cuộc. Thị trấn là nơi từng sinh ra những nhà khoa bảng Lê Duy Quỳnh, mở đầu cho nền khoa bảng của huyện. Các ông Đậu Phi Thái, Đỗ Thư, Trần Định (Trần Tĩnh), Hồ Nhuận (Hồ Sỹ Tạo), Trần Doãn Lương…, các võ tướng Đậu Nhân Lý, Đậu Nhân Nghĩa, Văn Sỹ Vệ... để lại tiếng thơm cho đời sau.
Hơn 1.000 năm xây dựng, bảo vệ quê hương đất nước, con người nơi đây đã hình thành lên những truyền thống tốt đẹp yêu quê hương, đất nước, kiên cường, bất khuất, đoàn kết, cộng đồng, nhân ái, nhân nghĩa… Đó là giá trị quý giá như lớp lớp phù sa bồi đắp qua nhiều thế hệ, là vốn quý để lại cho thị trấn bước vào thời kỳ lịch sử mới.
Chương II
Truyền thống đấu tranh của nhân dân thiện kỵ đến cách mạng tháng tám 1945
I. Trước khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời
Thiện Kỵ nằm ở vị trí chiến lược quân sự quan trọng của huyện địa đầu xứ Nghệ, có núi cao, rừng rậm, sông sâu, gần cảng biển, nơi hội tụ yết hầu của các mạch máu giao thông, tiến công, phòng thủ đều lợi hại, nên thời nào cũng có thủ lĩnh thiết lập căn cứ ở đây.
Từ đầu công nguyên, trong suốt cả quá trình đấu tranh chống sự thống trị của phong kiến phương Bắc, nhân dân làng Trú Kỵ đã tham gia ủng hộ nhiều cuộc khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan năm 772 chống lại nhà Đường, khi nghĩa quân dừng chân nghỉ lại đã được nhân dân ủng hộ chở che. Sang đầu thế kỷ thứ X, nước ta giành được độc lập, nhà Đinh, nhà Tiền Lê đã xây dựng kinh thành ở Hoa Lư (Ninh Bình), giải đất phía Nam của nước Đại Việt là phên dậu, chỗ dựa vững chắc của Nhà nước phong kiến Việt Nam. Thời Tiền Lê, Lê Hoàn cho khơi thông mở rộng dòng kênh Nhà Lê nối với sông Hoàng Mai, tạo thành đường thuỷ nội địa lợi hại, ngăn chặn có hiệu quả các cuộc xâm lược của phong kiến phương Bắc và phương Nam. Nhà Trần đã xây dựng trên vùng đất này được trên 50 cơ sở, kho tàng để cất dấu quân lương, trong đó có căn cứ Bà Hoà (phía Đông Bắc của thị trấn ngày nay).
Căn cứ Bà Hoà được thành lập từ năm 1043 với mục đích tập hợp người lưu vong phiêu tán khai thác vùng Hoàng Mai. Nhưng khi được nhà vua giao việc chuẩn bị quân lương để nam chinh, Lý Nhật Quang đã biến trại khẩn hoang thành trại trích trữ lương thực nên trại không chỉ là đồn thu tô mà là một hệ thống đồn bốt, đồn trại. Trong gần một năm Lý Nhật Quang đã thu lương thực chứa vào trại Bà Hoà khá nhiều. Nhờ có việc chuẩn bị đó đã góp phần quan trọng cho việc tháng Giêng năm Giáp Thân, vua xuất binh từ kinh sư mà cuối tháng Bảy năm ấy đã kéo đoàn quân chiến thắng trở về. Đến hành dinh Nghệ An, vua rất khen việc chuẩn bị đường giao thông và lương thực đầy đủ của Lý Nhật Quang trong đó có trại Bà Hoà, Lý Nhật Quang được gia phong từ tước hầu lên tước vương. "Đại việt sử ký toàn thư" viết: “Trước đây vua uỷ cho Minh Hầu thu thuế châu Nghệ An, sai đặt tại Bà Hoà cho trấn được bền vững; lại đặt điếm canh ở các nơi, chứa lương thực đầy đủ, cái gì cũng vừa ý vua cho nên được phong sắc như thế".
Năm 1285, quân Nguyên Mông do Toa Đô chỉ huy đưa quân xâm lược Chiêm Thành rồi kéo ra xâm lược nước ta lần thứ hai. Quân Toa Đô kéo đến Nghệ An đã vấp phải sự chống cự quyết liệt của quân dân vùng Hoàng Mai do Trần Nhật Duật thống lĩnh tại vùng cảng Xước (dọc kênh Nhà Lê và rú Xước), hai bên kịch chiến và đều bị hao binh tổn tướng “thây chất đầy núi, máu đỏ thành sông”.
Do có sự phản bội đầu hàng của tướng Trần Kiện nên Toa Đô vẫn hội tụ ở Bắc Hà nhưng cuối cùng bị nhà Trần tiêu diệt, góp phần đánh thắng quân Nguyên - Mông.
Bước sang thế kỷ XV, nhận thấy tầm quan trọng của xứ Nghệ, đặc biệt là vùng Bắc Nghệ An, nhà Hồ đã xây dựng cương phủ, kho tàng, trung tâm là Bào Đột (Quỳnh Lâm). Hồ Quý Ly đã cho đào kênh với ý định nối sông Thái với sông Hiếu-Nghĩa Đàn nhằm mục đích quân sự, chấn hưng kinh tế của một vùng Tây Bắc Nghệ An. Nhưng ý đồ bị bỏ dở bởi sự xâm lược của nhà Minh.
Trong suốt 20 năm thống trị của giặc Minh, bọn chúng đã dùng nhiều chính sách tàn bạo nhằm biến nước ta thành một quận, huyện của chúng. Không chịu được sự áp bức bóc lột của giặc, nhân dân ta đã nổi dậy đi theo các thủ lĩnh thời Hậu Trần như vua Trần Giản Định (Đế Ngỗi 1407-1409), Trần Quý Kháng (Trần Trùng Quang 1409-1413), các ông đều cho quân vào lập căn cứ ở vùng Hoàng Mai. Năm Mậu Tuất 1418, Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa ở Lam Sơn - Thanh Hoá, buổi đầu phải “nằm gai, nếm mật”, bị giặc Minh đánh cho tơi bời, lương không, quân hết:
“Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần
Lúc Khôi Luyện quân không một lữ”
Theo kế của tướng Nguyễn Chích, Lê Lợi đã cho quân vào Nghệ An tạo thế, vùng Hoàng Mai trở lên một vị trí quan trọng là hậu phương của cuộc khởi nghĩa. Những sự tích đền thờ "Bạch Y Đại Vương" có hầu hết các xã ở Quỳnh Lưu, nhất là các xã phía Tây Bắc của huyện. Theo lưu truyền, khu đền Bình An và chùa Bảo Minh là nơi trú quân của Lê Lợi lần đầu vào Nghệ An. Chiến thắng ở thành Trài (Diễn Châu), căn cứ xuất phát của tướng Đinh Lễ, Đinh Liệt đóng đại bản doanh ở đền Cồng (Quỳnh Hưng) nói lên điều đó. Đậu Nhân Nghĩa, Đậu Nhân Lý là những người con của quê hương Trú kỵ đã tham gia chiến trận và được Lê Lợi phong tước “quản lĩnh hầu”. Đất nước sạch bóng giặc Minh, nhớ công lao của những người khai quốc, công thần, Lê Lợi đã cho lập đền thờ cúng và phong chức tước cho họ.
1. Thiện Kỵ với phong trào nông dân khởi nghĩa, thế kỷ XVII-XVIII.
Đến thời Hậu Lê, nhà nước phong kiến Việt Nam bước vào giai đoạn suy thoái, các thế lực xưng bá, xưng vương tranh giành quyền lực, nhân dân đói khổ, lầm than, làng xã hoang tàn, xơ xác, sản xuất bị đình đốn, thiên tai bão lụt, nắng hạn diễn ra dồn dập. Sử cũ chép: “Mùa xuân 1713, tháng Giêng, bấy giờ hạn hán lâu ngày, thóc gạo cao vụt. Gạo một đấu nhỏ trị giá 1 tiền, dân phải tước vỏ cây, lá trúc mà ăn. Người chết đói đầy đường, xóm làng đâu cũng tiêu điều”(). “Cùng năm ấy, mùa thu tháng 7 mưa dầm không ngớt, nước sông tràn ngập… các đê điều bị vỡ cuốn trôi hàng vạn nóc nhà, dân đói khổ” ().
Tiếp theo các năm 1717, 1721, 1727, 1731… cũng tương tự như vậy, nhiều “đám giặc” (chỉ nông dân) bùng ra, chỉ một tin đồn cũng khiến dân sợ hãi. Năm 1721, “trời lâu không mưa, giá gạo tăng vụt, dân trong kinh thành đem những lời phao đồn về việc phiến động, truyền cho nhau làm nghi ngờ… họ tranh nhau chuyển tải tài sản, dìu dắc nhau lũ lượt nối gót ra khỏi cửa thành” .
Năm 1738, Lê Duy Mật (dòng dõi nhà Lê) có âm mưu đánh úp kinh thành nhưng thất bại. Mười năm long đong lận đận ở Kinh Bắc, năm 1749, ông rút về vùng Hoàng Mai (trung tâm là Trú Kỵ), được nhân dân giúp đỡ. ông Văn Sỹ Vệ (dòng dõi họ Văn Trú Kỵ) xuất tiền của, chiêu tập dân binh cùng với Lê Duy Mật đóng đồn ở Trú Kỵ, nhưng chưa đủ lực, ông cùng Lê Duy Mật dời bản doanh lên Xuân Giai (Tân Kỳ) chờ thời, mưu kế lâu dài.
Trận kịch chiến giữa Phạm Đình Trọng với Nguyễn Hữu Cầu trên đất Hoàng Mai (vùng núi Xước), Nguyễn Hữu Cầu bị bắt. Bùi Dương Lịch, một sử gia đương thời viết: “Năm 1777, Quỳnh Lưu có nhiều giặc cướp, trấn thần là Huy quận công Hoàng Đình Bảo bắt được một tên tướng giặc tự xưng là "xung thiên đại tướng quân”, đóng quân ở vùng rừng núi Trú Kỵ". (Tướng giặc ở đây là Nguyễn Hữu Cầu, lãnh tụ của nông dân vùng lên chống áp bức).
Tinh thần quật khởi của nhân dân bùng lên mạnh mẽ, tập hợp dưới ngọn cờ áo vải trong thế kỷ XVIII (phong trào Tây Sơn khởi nghĩa). Những lần kéo quân ra Bắc, Nguyễn Huệ được đông đảo nhân dân Nghệ An ủng hộ: xung lính, xuất tiền nuôi quân. Mặc dầu vậy một số ngu quân trung thành với nhà Lê chống lại Tây Sơn vẫn diễn ra quyết liệt trên đất Hoàng Mai, vì thế nhân dân phải phiêu tán, tộc phả họ hàng bị mất ở thời kỳ Tây Sơn, làng Vĩnh Lộc phiêu tán trong thời kỳ này, đến thời Nguyễn, các tộc phả mới được xây dựng lại, bị thiếu sót nhiều.
Trong gần một thế kỷ thực dân Pháp xâm lược đô hộ nước ta, nhân dân Thiện Kỵ đã nổi dậy chống thực dân Pháp xâm lược với nhiều khuynh hướng khác nhau, có lúc trở nên quyết liệt:
“Dập dìu, súng bắn, cờ xiêu
Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây”
Cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất 1874 do Trần Tấn, Đặng Như Mai làm thủ lĩnh đã có chiến luỹ ở Hoàng Mai. Tham gia cuộc khởi nghĩa có Quản Cừu, Đội Trọng, Tú Vinh, Hồ Sỹ Côn, Trương Hữu Chít, ông Đậu Viết Tựu (Thiện Kỵ) giữ chức đội trưởng. Ông Hồ Sỹ Côn mở xưởng chế tạo vũ khí đánh lại Pháp và triều đình, sau nhiều lần thất bại, cuối cùng vẫn thành công. Trần Tấn ra tiền tiêu Thiện Kỵ trực tiếp chỉ huy, nhà Nguyễn phải thú nhận: “Lúc ấy bọn giặc ở Nghệ An (chỉ nghĩa quân Trần Tấn) từ Hoàng Mai tràn sang phủ Tĩnh Gia (Thanh Hoá) và quấy nhiễu các vị trí Hà Niệm Thượng, Ba Xuyên, Sơn Châu, Đội Trà …”()
Trước sự hoang mang tháo chạy của quân triều đình, lẽ ra nghĩa quân phải phản công truy kích nhưng thủ lĩnh Trần Tấn lại ra lệnh lui binh “để giữ sức”. Ông cho rằng quân ta đã mạnh, nay mai tiến đánh phủ Tĩnh Gia cũng chưa muộn. Đó là một trong những nguyên nhân thất bại của cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất.
2. Một số biến đổi lớn sau khi thực dân Pháp chinh phục nước ta.
Năm 1884, triều đình nhà Nguyễn nhu nhược ký hiệp ước Patơnốt, dâng nước ta cho thực dân Pháp. Chúng chia nước ta ra làm ba kỳ: Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ, mỗi kỳ áp dụng chế độ kinh tế - xã hội khác nhau; cùng với Lào, Campuchia hợp thành Đông Dương thuộc Pháp, nước ta bị xoá tên trên bản đồ thế giới. Xã hội Việt Nam từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến.
Huyện Quỳnh Lưu thuộc Trung Kỳ, được chia làm 4 tổng: Phú Hậu, Quỳnh Lâm, Thanh Viên và Hoàng Mai. Thiện Kỵ thuộc Tổng Hoàng Mai, nơi đây in đậm dấu ấn của sự cấu kết chặt chẽ giữa thực dân Pháp với chế độ phong kiến triều Nguyễn. Thực dân Pháp áp dụng hình thức cai trị trực tiếp, mặt khác chúng duy trì hệ thống chính quyền phong kiến làm tay sai đắc lực cho thực dân Pháp.
Dưới tổng là làng xã. Năm 1915 ở Quỳnh Lưu có 78 làng xã, đến năm 1925 có 82 làng, xã, Thiện Kỵ là một trong những làng xã có mục triện riêng().
Thiện Kỵ bị kẹt giữa các đồn Tây, trại lính ở cả 3 phía. Phía Bắc đồn Pháp đóng ở Mỏ Kẽm, phía Nam và Đông Nam là đồn Ngọc Huy để kiểm soát kinh tế, chủ yếu là muối và rượu. Mỗi đồn có một tiểu đội lính lê dương do đồn trưởng người Pháp chỉ huy.
Chính quyền thực dân phong kiến có bộ máy gọn, mỗi làng chỉ có từ 3-5 người. ở huyện đứng đầu là tri huyện người Việt, những người giúp việc, đề lại, thừa phái, lục sự. Cạnh huyện có một đồn khố xanh và hình thành một số đồn theo từng khu vực: như đồn ở Rú Đồn (Cầu Giát) có khoảng 20 lính do một sỹ quan người Pháp chỉ huy. Cũng như mọi nơi trong cả nước, quan lại cấp huyện, tuy là người Việt nhưng thực chất là do người Pháp chỉ huy.
ở tổng đứng đầu là chánh tổng, giúp chánh tổng có phó tổng, hàng xã có lý trưởng, giúp việc có phó lý, ngũ hương.
Trụ sở của huyện đường là chốn tôn nghiêm, thể hiện uy lực tuyệt đối của chế độ thực dân phong kiến. Những người dân nào muốn kêu oan sai phải trình tri huyện xem xét trước, có tiền, có thế lực mới được gặp. Điều này thể hiện sự quan liêu của bọn hào lý, làm cho cuộc sống cập nhật của người dân ở chốn làng quê bị đè nén, nhũng nhiễu tới cực điểm. Không những thế, chúng lợi dụng cả thần quyền để cai trị nhân dân. Mỗi xóm, mỗi làng đều có đền chùa, miếu… đây là những nơi linh thiêng, chúng lợi dụng vào những yếu tố đó để mê hoặc, làm vơi đi nỗi thống khổ hàng ngày của người dân.
Chế độ sưu thuế, lao dịch của thực dân khá nặng nề, nhất là sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918), chúng đẩy mạnh khai thác thuộc địa, tăng thuế, đặc biệt là thuế thân từ 18 tuổi trở lên. Năm 1898 ở Trung Kỳ, thuế thân thu 3 hào trên một đầu người, nhưng hàng năm các thứ thuế tiếp tục tăng lên khoảng 8%, đến năm 1929 chúng tăng lên 20%. Thuế điền thổ (đất đai) năm 1929 tăng lên 30%. Mỗi kỳ thu thuế, xóm làng điêu linh, dưới luỹ tre làng là nỗi thống khổ, rên xiết của người dân nghèo. Trống thúc, mõ la, lục soát, đánh đập, bắt giam, nhà tan cửa nát. Những đợt thu thuế từ làng, xã đến tổng, huyện bọn quan lại tha hồ vơ vét, nhũng nhiễu người dân. Có lúc chúng tự tiện tăng thêm mức thuế, đặt thêm loại thuế để bỏ vào túi cá nhân. Cứ mỗi lần thu thuế, ruộng đất của người nông dân lao động dần dần mất vào tay địa chủ, hào lý.
Hết thuế lại đến phu phen, tạp dịch diễn ra liên tục. Những đợt đi phu làm đường cũng như những đợt bắt lính đã làm chia rẽ, tan nát gia đình, nhiều người phải bỏ mình nơi rừng thiêng, nước độc do lao động quá mức.
Làm cho dân ngu để dễ bề thống trị, cũng là một nét nổi bật của chế độ thực dân phong kiến. Năm 1918, chúng bỏ chữ Hán chuyển sang dạy chữ quốc ngữ, mãi đến năm 1920 cả huyện Quỳnh Lưu chỉ có một trường tiểu học đặt ở Tiên Yên, Quỳnh Bá. Chúng khuyến khích mê tín dị đoan và các hủ tục lạc hậu. Các tệ nạn xã hội hoành hành dữ dội, nhất là cờ bạc, nghiện hút thuốc phiện. Cả huyện chỉ có một cơ sở y tế nhỏ đặt ở Quỳnh Hồng, với một số thầy thuốc trình độ sơ cấp, thuốc men ít. Các bệnh dịch thường xảy ra, dân tình đã khổ cực, thiên tai lại liên tiếp xẩy ra, hết hạn hán lại bão lụt, giông bão thường xuyên gây đổ nhà. Ba năm Tỵ, Ngọ, Vỵ (1929 - 1930 - 1931), trời làm hạn hán liên tiếp 2 năm Ngọ - Vị, cả 3 năm, mùa thu nước lũ tràn về, làm cho cả vùng Hoàng Mai chìm trong biển nước. Trời nắng hạn nên nhà tranh vách nứa lại càng dễ cháy.
Những khổ cực đó dồn nén lên đầu người dân lao động, đến những ông chủ hiệu nhỏ cũng bị đế quốc phong kiến áp bức bóc lột. Vì vậy, từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, nhân dân Thiện Kỵ sẵn sàng theo Đảng đấu tranh giành tự do độc lập.
II. Từ khi Đảng cộng sản Việt nam ra đời đến cách mạng tháng tám 1945:
1. Các cuộc đấu tranh qua các cao trào cách mạng 1930-1931 và 1936-1939:
Cách mạng tháng Mười Nga (1917) thành công đã mở ra một thời đại mới, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện lịch sử đó, Nguyễn ái Quốc đã vượt qua tầm nhìn hạn chế của các tầng lớp sỹ phu yêu nước đương thời, sớm nhận ra con đường giải phóng dân tộc: "Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội". Bằng tư duy, trí tuệ, Nguyễn ái Quốc đã sớm xác định tư tưởng, chính trị và tổ chức. Được sự giúp đỡ của Quốc tế cộng sản, ngày 3/2/1930 Nguyễn ái Quốc đã tổ chức hội nghị hợp nhất 3 tổ chức tiền thân của Đảng thành lập ra Đảng cộng sản Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời mở ra bước ngoặt lớn cho cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối.
Ngày 20/4/1930, Đảng bộ huyện được thành lập tại làng Thanh Sơn (Sơn Hải), trực tiếp lãnh đạo phong trào. Trong thời kỳ cách mạng 1930-1931, làng Thiện Kỵ chưa có cơ sở Đảng, nhưng những tầng lớp thanh niên tân tiến như Văn Sỹ Thọ, Nguyễn Bá Nghiêm… đã giác ngộ cách mạng, treo cờ Đảng ở ga Hoàng Mai, đồn Ngọc Huy (Mai Hùng) và rải truyền đơn cách mạng. Những hoạt động ở vùng Hoàng Mai và cả tổng góp phần vào phong trào chung của huyện và tỉnh, cũng như cả nước, lập nên phong trào xô viết Nghệ Tĩnh 1930-1931, làm chấn động hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp.
Cao trào cách mạng 1930-1931 bị địch khủng bố dữ dội, nhiều cán bộ đảng viên và hội viên của tổ chức bị bắn, bị tù… Phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống, nhưng tinh thần cách mạng, ý chí căm thù thực dân phong kiến vẫn âm ỉ trong lòng nhân dân, hễ có dịp là bùng lên mạnh mẽ.
Trong những năm 1934-1935, chủ nghĩa phát xít được hình thành, tâm điểm là Đức, ý, Nhật, nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II đến cận kề. Thế giới thành lập Đồng Minh chống phát xít. Mặt trận bình dân Pháp lên nắm quyền, nới rộng một số dân chủ ở Đông Dương. Tháng 3 năm 1935, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng họp ở Ma Cao Trung Quốc. ở trong nước, các tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng đươc khôi phục. Các Hội nghị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tiếp tục phân tích rõ tình hình trong và ngoài nước đã đi đến quyết định: tạm gác khẩu hiệu "Đánh đổ đế quốc phong kiến, đem lại ruộng đất cho người cày” và đưa ra khẩu hiệu: “Tự do, dân chủ, đòi cơm áo, hoà bình”. Khẩu hiệu đó đã đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của tất cả các giai tầng trong xã hội Việt Nam, dấy lên cao trào cách mạng 1936-1939.
Cuối năm 1935, đồng chí Phan Hữu Khiêm, sau khi được ra tù đã vào Diễn Thành (Diễn Châu) nhận Chỉ thị của Tỉnh uỷ Nghệ An. Sau đó tại Phú Nghĩa (Quỳnh Nghĩa) một cuộc Hội nghị khôi phục lại Đảng bộ huyện được tiến hành. Hội nghị bầu Ban chấp hành lâm thời huyện do đồng chí Phan Hữu Khiêm làm bí thư, hai uỷ viên là Phạm Diên và Nguyễn Xuân Mai.
Huyện uỷ phân công đồng chí Phan Hữu Khiêm phụ trách chung. Đồng chí Phạm Diên phụ trách tổng Hoàng Mai, cơ sở liên lạc đặt ở Thiện Kỵ (núp dưới vỏ bọc là hiệu thuốc bắc do đồng chí Phạm Diên làm thầy thuốc). Đồng chí Nguyễn Xuân Mai phụ trách chỉ đạo tổng Thanh Viên. Theo chỉ đạo của Huyện uỷ, vùng Hoàng Mai trước đây chưa có chi bộ Đảng nhưng thời kỳ này đã thành lập được 4 chi bộ: chi bộ Quý Vinh - Thiện Kỵ(), chi bộ Hải Lệ (Quỳnh Lộc), chi bộ Phương Cần (Quỳnh Phương), chi bộ Nhị Yên (Quỳnh Trang).
Tháng 7 năm 1935, đồng chí Phạm Diên() về chỉ đạo thành lập tổng uỷ lâm thời gồm 4 đồng chí. Đồng chí Văn Sỹ Thọ bí thư, đồng chí Phan Xuân Thụ (Quỳnh Lập) liên lạc và tiếp thu nghị quyết của cấp trên, các uỷ viên gồm Lê Đăng Phượng (Quỳnh Trang), Trần Phúc Giá (Quỳnh Lộc).
Do có Điều lệ nên việc nắm liên lạc thường xuyên và sự chỉ đạo từ huyện xuống tổng, tổng đến thôn được duy trì, các cuộc họp đều có đồng chí Phạm Diên dự và chỉ đạo.
Tháng 9-1936, đồng chí Văn Sỹ Thọ được điều đi dạy học ở Anh Sơn, Tổng uỷ Hoàng Mai vẫn duy trì liên lạc và chỉ đạo cơ sở đấu tranh theo khẩu hiệu chiến lược của Đảng.
Trong thời kỳ mặt trận dân chủ Đông Dương vùng Hoàng Mai trung tâm là Thiện Kỵ đã nổi lên các phong trào dưới sự lãnh đạo của Đảng:
Phong trào truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin
Với nhiều hình thức phong phú, hội truyền bá quốc ngữ, hội đọc sách báo, hội bóng đá… đã diễn ra sôi nổi, trung tâm là Thiện Kỵ do đồng chí Văn Sỹ Thọ trực tiếp truyền bá. Đây là hình thức để nâng cao dân trí, thông qua các hoạt động đó để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Các làng Thiện Kỵ, Phương Cần, Hữu Lập… đã diễn ra sôi nổi, giác ngộ được nhiều quần chúng đấu tranh.
Phong trào lấy chữ ký, thu thập nguyện vọng của nhân dân gửi cho phái bộ mặt trận bình dân Pháp sang điều tra tình hình ở Đông Dương.
Năm 1936, tại Thành phố Vinh diễn ra Đông Dương Đại hội của tỉnh. Những đại biểu của Quỳnh Lưu tích cực thu thập nguyện vọng của dân, phong trào diễn ra sôi nổi.
Những điểm chính ý nguyện được nêu lên là tự do hội họp, tự do đi lại, tự do lập hội, đòi thả tự do cho tù chính trị, chống bắt rượu và muối, đòi giảm sưu, thuế, đặc biệt là đòi bỏ thuế thân… Những bản yêu sách đó kèm theo chữ ký gửi cho phái đoàn điều tra của Chính phủ Pháp do Gôđa dẫn đầu sang Đông Dương. Nhân dịp này Trung ương Đảng đã chỉ thị “Đón phái đoàn Gôđa” để đưa dân nguyện, nhằm biểu dương sức mạnh của quần chúng và đòi các yêu sách đấu tranh giành quyền tự do dân chủ.
Ngày 23-2-1937, trên đường từ Hà Nội vào, phái đoàn Gôđa đã dừng chân tại Cầu Giát, thăm chợ Giát và nhà thương (bệnh viện). Do có sự chỉ đạo của huyện, lại nhân ngày phiên chợ Giát, nhân dân 4 tổng đều về dự. Đặc biệt là đông đảo thanh thiếu niên học sinh của các trường tư thục Vũ Đăng Khoa, trường tiểu học Tiên Yên (Quỳnh Bá) về đứng hai bên đường vẫy khẩu hiệu, cờ, cùng với nhân dân dâng cao biểu ngữ và hô vang: “Hoan nghênh Mặt trận bình dân Pháp”, “Đại xá tù chính trị phạm”, “Tự do hội họp và ngôn luận”, “Bỏ thuế thân”…
Khi Gôđa đến, đã có hàng trăm bản dân nguyện, hàng ngàn chữ ký giao cho phái đoàn.
Cuộc vận động tranh cử lý trưởng hào mục:
Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bọn thực dân Pháp ở Đông Dương phải thực hiện một số cải cách, chịu để cho những người lao động được bầu đại biểu vào Viện Dân biểu, vào các Hội đồng quản hạt ở thành phố, vào các chức chánh, phó hương hội và lý trưởng, hào mục ở các làng xã. Trong điều kiện một nước thuộc địa nửa phong kiến, thực dân Pháp không cho nhân dân ta hưởng một quyền tự do dân chủ nào, đây là dịp để loại bỏ những phần tử làm tay sai đắc lực cho đế quốc ra khỏi bộ máy chính quyền, đưa những người cảm tình với cách mạng vào nắm các chức vụ: chánh, phó tổng, lý trưởng và ngũ hương như các ông chánh tổng Nguyễn Bá Cang (chánh Cang), Nguyễn Bá Đỉnh (chánh Cơn), Nguyễn Xuân Thăng (chánh Thăng), Nguyễn Bá Kỷ (Chánh tổng đoàn); lý trưởng Nguyễn Viết Tởi, Trần Tiềm, Nguyễn Bá Cương…
Thực hiện chủ trương của trên, Huyện uỷ Quỳnh Lưu đã chỉ đạo các tổng, các chi bộ tìm cách đưa những đảng viên hoặc cảm tình của Đảng vào bộ máy chính quyền. Trong làng, xã lúc này đã hình thành hai phe, phe hào là những người của địch, phe hộ là những người được dân cảm tình. Những cuộc bầu cử diễn ra khá gay go quyết liệt giữa phe hào và phe hộ. Các làng ở vùng Hoàng Mai đều đưa được những đảng viên và người có cảm tình của Đảng vào các chức sắc của làng.
Ngày 12-9-1937, Viện Dân biểu Trung Kỳ họp hội nghị thường niên để thông qua dự án thuế thân và tăng thuế ruộng đất. Tỉnh uỷ Nghệ An chủ trương phát động quần chúng đấu tranh, đòi Viện Dân biểu phải bảo vệ lợi ích của nhân dân. Thực hiện chủ trương đó, Huyện uỷ Quỳnh Lưu lãnh đạo các chi bộ ở các làng, xã biểu tình phản đối dự án trên. Nhiều cơ sở tổ chức hội họp, thảo luận, mít tinh, lấy chữ ký vào đơn gửi Toà Khâm sứ và Viện Dân biểu Trung Kỳ để phản đối.
Cùng thời gian trên, ở vùng Hoàng Mai, hào lý tổ chức đắp đê Nông Đoàn ở (Thiện Kỵ) nhưng không chịu xuất công quỹ mà bắt người dân đi làm phải gánh chịu mọi chi phí. Huyện uỷ Quỳnh Lưu chỉ đạo Tổng uỷ Hoàng Mai kêu gọi quần chúng đấu tranh. Dưới sự chỉ đạo của Tổng uỷ, các chi bộ ở vùng Hoàng Mai liên kết chặt chẽ với nhau, cả công trường đấu tranh có hiệu quả. Làng có công quỹ phải bỏ công quỹ cho dân ăn hàng ngày để đi đắp đê như làng Thiện Kỵ, nơi không có công quỹ thì các nhà phú hữu phải bỏ tiền cho làng vay như Hải Lễ, Hữu Lập, Phương Cần, Dị Nậu, Quý Vinh - Thọ Vinh. Làng Hữu Lập huy động không đủ tiền phải bán đình, bán hội. Làng Phương Cần bán chức tước để có tiền cung cấp cho dân. Công việc đắp đê kéo dài gần 3 năm, bọn hào lý phải chu cấp cho dân ăn đến khi đê hoàn thành đầu năm 1940. Đây là thắng lợi chung của cả vùng, trong đó có sự chỉ đạo chặt chẽ của huyện, của tổng, đặc biệt là các chi bộ, trong đó có chi bộ Quý Vinh - Thiện Kỵ.
Phong trào ủng hộ Trung Hoa kháng Nhật:
Tháng 3-1938 Tỉnh uỷ Nghệ An ra Nghị quyết ủng hộ Trung Hoa kháng Nhật, Huyện uỷ Quỳnh Lưu triển khai Nghị quyết đó bằng cách chỉ đạo các làng, xã vận động nhân dân quyên góp tiền ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Quốc chống phát xít Nhật xâm lược. Trong thời gian hai năm (1938-1939), cuộc vận động quyên góp đã lôi cuốn nhiều tầng lớp tham gia, đông đảo nhất là tầng lớp thanh niên, phụ nữ.
Phong trào thể hiện tinh thần đoàn kết quốc tế chống phát xít, qua đó nâng cao sự giác ngộ chính trị cho nhân dân.
2. Làng Thiện Kỵ với phong trào đấu tranh giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945:
Chiến tranh thế giới lần thứ II diễn ra khốc liệt và sắp sửa bước vào giai đoạn kết thúc. Tháng 6/1940 phát xít Đức xâm chiếm nước Pháp, Chính phủ của Mặt trận Bình dân Pháp bị lật đổ, Chính phủ mới do Đalađiê lên cầm quyền đã thực thi nhiều chính sách phản động. Thực dân Pháp ở Đông Dương phát xít hoá bộ máy cai trị của chúng, các đồn đồn Ngọc Huy, Hoàng Mai (Mỏ Kẽm), Cầu Giát, Thanh Sơn… được tăng thêm lính Pháp. Hàng ngày, chúng xua quân đi càn quét, truy lùng bắt bớ cán bộ và những người yêu nước.
Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị cho tất cả các tổ chức Đảng rút vào hoạt động bí mật để bảo toàn lực lượng. Đảng bộ tỉnh Nghệ An, Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu chuyển sang hoạt động bí mật nhưng không kịp, nên nhiều cán bộ đảng viên và quần chúng bị địch bắt. Tuy vậy, vùng Hoàng Mai số cán bộ đảng viên còn lại vẫn tổ chức một cuộc mít tinh tại chùa Bà (cạnh rừng thông Hữu Lập) có khoảng 50 người tham gia do đồng chí Trịnh Huy Quang diễn thuyết. Đồng chí thuyết trình về công xã Pari, về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga và chống chủ nghĩa phát xít. Chánh tổng Nguyễn Hữu Khai vào báo cáo với tri huyện Nguyễn Trung Khiêm(): làng Hữu Lập có cộng sản. Là người có cảm tình với cách mạng, tri huyện Nguyễn Trung Khiêm kéo dài thời gian, tạo điều kiện cho những người tham gia biểu tình tẩu thoát rồi mới lệnh cho bang tá () Hồ Thành đưa lính cùng với Chánh Khai về Hữu Lập truy lùng cộng sản, lùng hết núi này, núi nọ không thấy cộng sản ở đâu. Nắm bắt tình hình đó tổng uỷ Hoàng Mai vận động hào lý và nhân dân Hữu Lập kiện Chánh Khai về tội “vu khống, làm khổ làng”. Vụ kiện kéo dài hơn một năm, chánh tổng Nguyễn Hữu Khai bị cách chức. Sau vụ kiện, tri huyện Nguyễn Trung Khiêm bị điều lên Nghĩa Đàn, trước lúc đi ông có bài thơ tạm biệt, nội dung bài thơ có nhiều ẩn ý sâu xa mang ước mơ hoài bão tốt đẹp: làm cách mạng, lật đổ thực dân đế quốc, phong kiến.
Ngày 22-9-1940, phát xít Nhật đánh chiếm Lạng Sơn, cho máy bay ném bom Hải Phòng. Thực dân Pháp nhanh chóng thoả hiệp rồi dâng Đông Dương cho Nhật. Nhật - Pháp thi nhau vơ vét của cải xứ Đông Dương. Với chính sách kinh tế thời chiến, chúng trưng mua, trưng thu các mặt hàng nông sản: lúa, ngô, đậu, lạc, vừng, đay, bông…; tăng thuế đột ngột các mặt hàng khác như muối, cá khô, nhựa thông… Bọn Tây đoan tăng cường lùng sục bắt muối, rượu và những hàng lâm thổ sản. Không những thế, chúng còn bắt dân đi làm các con đường, nạo vét kênh rạch. Cứ mỗi đợt đi làm đường Hoàng Mai, nạo vét kênh nhà Lê, sửa sang đê Nông Đoàn có hàng trăm người phục dịch nhưng tất thảy làm công không, không có gạo ăn. Một số người có lòng yêu nước như lý trưởng Quyền Tiềm đã trực tiếp can thiệp với người Nhật để dân phu đi làm có gạo ăn.
Ngày 28-1-1941, sau gần 30 năm buôn ba hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn ái Quốc đã trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Người, ngày 19-5-1941, Mặt trận Việt Minh đã được thành lập. Tháng 5-1941, Hội nghị lần thứ 8 của Đảng họp, nhận định: Hai kẻ thù ở Đông Dương (Nhật-Pháp) sẽ xâu xé nhau để tranh giành quyền lợi, lúc đó thời cơ cách mạng sẽ tới, nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu là phải đánh đổ ách thống trị, tàn bạo của phát xít Nhật, giải phóng dân tộc khỏi ách lầm than.
Thời cơ cách mạng Việt Nam đến gần, Trung ương Đảng đã nêu rõ mâu thuẫn gay gắt giữa phát xít Nhật và thực dân Pháp, chỉ rõ: Nhật sẽ diệt Pháp để trừ hoạ Pháp đánh từ sau lưng, khi quân Đồng Minh vào Đông Dương. Đúng như dự đoán của Đảng, ngày 9-3-1945, phát xít Nhật làm đảo chính, hất cẳng Pháp độc chiếm Đông Dương. Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, nhận định: Tình hình đó làm cho khủng hoảng chính trị diễn ra, nạn đói đang hoành hành dữ dội, trong lúc đó chiến tranh thế giới bước vào giai đoạn kết thúc với thắng lợi thuộc về quân Đồng Minh, tình thế, thời cơ cách mạng đến gần. Chỉ thị nêu rõ: “kẻ thù duy nhất lúc này là phát xít Nhật”. Đảng đã phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước, tập trung quần chúng chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
Đầu năm 1945, ở Quỳnh Lưu, Việt Minh bí mật ra đời qua đường dây liên lạc của bà Hồ Thị Son, cán bộ Việt Minh từ Thanh Hoá mang tài liệu về, tuyên truyền chủ trương Việt Minh, xây dựng lực lượng và tổ chức. Các ông Nguyễn Thạch Kim, Hồ Viết Thắng, Phan Hữu Khiêm… sau khi ra tù (9-3-1945) đã liên lạc với Ban Việt Minh tỉnh bắt mối liên lạc. Những tháng sau đó, các tổng và các làng đều có tổ chức Việt Minh.
Việt Minh tổng Hoàng Mai do ông Nguyễn Đức Nghi đứng đầu. Trung tâm vùng Hoàng Mai có hàng chục hội viên, tiêu biểu như ông Nguyễn Bá Nghiêm, ông Đậu Phi Tuy, Nguyễn Bá Ngoạn, Nguyễn Viết Kế… Sau đó Việt Minh làng Thiện Kỵ được thành lập, ông Nguyễn Bá Nghiêm làm Chủ nhiệm Mặt trận, thành viên là các ông Nguyễn Bá Nhuận, Nguyễn Bá Thuận, Nguyễn Bá Toán, Trần Tiềm. Mặt trận Việt Minh làng Thiện Kỵ đã cùng với cán bộ Việt Minh huyện tuyên truyền, giải thích mười chính sách của Mặt trận và nói chuyện tình hình thế giới, nhiệm vụ của cách mạng.
Trên cơ sở tổ chức Việt Minh huyện, Hội nghị khôi phục Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu được diễn ra ở Phú Nghĩa Thượng (Quỳnh Nghĩa), đồng chí Nguyễn Xuân Mai làm Bí thư. Sau Hội nghị, căn cứ vào tình hình phát triển của tổ chức Việt Minh, nhưng do nạn đói xẩy ra nghiêm trọng, nạn trộm cướp xẩy ra nhiều, việc xây dựng các đội tự vệ thanh niên ở các làng, xã. Tại làng Thiện Kỵ mỗi xóm đều thành lập một tiểu đội Bảo An đoàn (tổ chức này do phát xít Nhật dựng lên sau khi đảo chính Pháp, nhưng ta đã lợi dụng tổ chức này để hoạt động cho ta), đây là việc làm cấp bách nhằm giữ gìn trật tự nơi hương thôn. Thực tế lúc đó cho thấy ở làng, xã ngoài chính quyền thân Nhật còn có tổ chức Việt Minh mà nòng cốt là đội tự vệ thanh niên đóng vai trò như là chính quyền cách mạng lâm thời.
Tháng 8-1945, cuộc chiến tranh Thế giới thứ II bước vào giai đoạn kết thúc. Ngày 9-8-1945, Hồng quân Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật. Chỉ trong ít ngày Hồng quân Liên Xô đánh tan đội quân Quan Đông thiện chiến của Nhật. Ngày 13-8-1945, Huyện uỷ họp phiên khẩn cấp ở làng Quỳnh Đôi, quyết định thành lập Uỷ ban khởi nghĩa từ huyện xuống xã, trước mắt tập trung vào 2 làng có cơ sở cách mạng: Quỳnh Đôi, Văn Thai (Sơn Hải), Huyện uỷ phân công đồng chí Dương Đình Thuý và đồng chí Nguyễn Văn Phương đến huyện đường thuyết phục tri huyện Dương Ngọc Liễn. Trước tình thế cách mạng lên cao, tri huyện đã hứa làm theo cách mạng bằng cách nạp 2 khẩu súng ngắn làm tin. Tiếp đó, Huyện bộ Việt Minh ra chỉ thị gửi các cấp bộ Việt Minh:
“Mới được tin chính thức, Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện, Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim đổ, Vinh đã kéo cờ Việt Minh, rải truyền đơn và đã in sẵn gửi đi các phủ huyện, nhưng mới được nửa đường, sắp sửa đến Quỳnh Lưu. Vậy thông báo cho các cấp bộ biết để:
1. May cờ Việt Minh hình chữ nhật, màu đỏ, giữa có sao vàng năm cánh.
2. Sắp đặt tự vệ, nơi nào chưa có thì chọn ngay những phần tử hăng hái nhất, không nên câu nệ và phải luyện tập hàng ngũ cho chỉnh tề.
3. Hết sức ngăn cản hoạt động cá nhân như tư hiềm tư thù.
4. Không được phép tự xử án bất cứ một người nào.
5. Chuẩn bị cướp chính quyền hương, thôn, lựa chọn những người xứng đáng đủ sức thay mặt dân chúng để làm việc.
Các đồng chí nên biết luôn luôn nhớ nguyên tắc của Việt Minh là thống nhất các tầng lớp dân chúng, đặt quyền lợi quốc gia lên hết mọi sự ().
Tình thế cách mạng chín muồi, công tác chuẩn bị khởi nghĩa dồn dập, thời cơ giành chính quyền đã đến.
Ngày 15-8-1945, phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, Chính phủ Lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu ra lệnh Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Được sự chỉ đạo của Việt Minh, hai làng Quỳnh Đôi và Văn Thai nổi dậy giành chính quyền mau lẹ. Tối 15-8-1945, Huyện ủy họp ở làng Văn Thai, sau khi xem xét đã quyết định giành chính quyền ở huyện vào ngày 17-8-1945, dự kiến danh sách Uỷ ban hành chính cách mạng lâm thời do ông Nguyễn Xuân Mai làm chủ tịch. Đúng như dự kiến, 15 giờ ngày 17-8-1945 (phiên chợ Giát 10-7 năm ất Dậu), hàng ngàn người như thác đổ từ các ngã đường kéo về huyện lỵ Cầu Giát. Dòng người đội ngũ chỉnh tề, mang theo cờ đỏ sao vàng và các biểu ngữ “ủng hộ Việt Minh”, “Việt Nam độc lập muôn năm”... vừa đi vừa hô vang khẩu hiệu, tiến thẳng vào huyện đường. Trước khí thế mạnh mẽ của quần chúng và cũng do làm tốt công tác binh vận từ trước, tri huyện Chữ Ngọc Liễn và các quan chức trong huyện ra chào đón, nộp triện, thẻ bài, sổ sách cho cách mạng. Lá cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió mùa thu, chứng kiến sự chấm dứt vĩnh viễn hàng ngàn năm chế độ phong kiến, hàng trăm năm chế độ thực dân.
Đồng chí Nguyễn Xuân Mai, Chủ tịch ủy ban khởi nghĩa trịnh trọng tuyên bố: từ nay chính quyền đã thực sự về tay nhân dân, chấm dứt ách thống trị của bè lũ phát xít, tay sai. Người dân mất nước nô lệ, nay đứng lên làm chủ tương lai vận mệnh của mình. 13 thành viên Uỷ ban hành chính cách mạng lâm thời ra mắt nhận nhiệm vụ. Tiếp theo, ông công bố lệnh tử hình những tên có nợ máu với nhân dân.
ở trung tâm Hoàng Mai (sân vận động làng Thiện Kỵ), cách mạng xử tử hình Đội Mạo nhằm tăng thêm uy thế cách mạng, cổ vũ những nơi chưa giành được chính quyền. Ngày 18/8/1945, hàng ngàn người đã trống dong cờ mở, tập trung tại đình làng Thiện Kỵ, chứng kiến sự trao lại chính quyền cho làng Thiện Kỵ và cả tổng Hoàng Mai.
Uỷ ban nhân dân lâm thời của làng Thiện Kỵ gồm:
Ông Đậu Phi Tuy, Chủ tịch
Ông Nguyễn Bá Thuận, Phó chủ tịch
Ông Nguyễn Bá Nghiêm, Chủ nhiệm Việt Minh
Ngày 18-8-1945 thực sự là một ngày hội lớn của nhân dân Thiện Kỵ và cả tổng Hoàng Mai. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, nhân dân Thiện Kỵ đã vùng lên xoá bỏ xiềng xích của phát xít - thực dân và bè lũ tay sai phong kiến, trút bỏ nỗi nhục mất nước, cuộc đời nô lệ, đứng lên làm chủ vận mệnh quê hương, đất nước.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Tầng lớp thanh niên tiên tiến của làng được giác ngộ cách mạng bởi có những đảng viên trong thời kỳ 1936-1939. Họ tiếp thu và thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, biết dựa vào dân; tổ chức cho quần chúng đấu tranh, tạo nên sức mạnh cho cách mạng. Đồng thời nắm bắt thời cơ, kêu gọi nhân dân nổi dậy giành chính quyền thắng lợi. Đó là niềm tự hào xứng đáng của cán bộ đảng viên và nhân dân làng Thiện Kỵ.
Cách mạng tháng Tám 1945 mở ra trang sử mới cho quê hương, đất nước. Từ đây, mỗi thắng lợi thành công đều đặt dưới sự lãnh đạo của chi bộ, sau này là Đảng bộ xã.
Chương III
Dưới sự lãnh đạo của đảng, nhân dân thiện kỵ góp phần vào sự nghiệp kháng chiến chống thực dân pháp
thắng lợi (1946-1954)
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chớp thời cơ, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã diễn ra mau lẹ và thành công trong cả nước.
Ngày 2/9/1945, thay mặt quốc dân đồng bào, tại vườn hoa Ba Đình - Hà Nội Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam á.
Chính quyền làng, xã, tổng được thiết lập. Trụ sở của UBND lâm thời tổng Hoàng Mai đóng ở đồn Ngọc Huy do ông Nguyễn Đức Nghi làm Chủ tịch, được duy trì đến ngày 6/1/1946.
“Giành chính quyền đã là khó, giữ chính quyền càng khó hơn”. Cách mạng thành công nhưng thù trong, giặc ngoài mưu toan bóp chết chính quyền đang còn trong trứng nước.
Trong nước, nạn đói năm 1945 chưa qua, làm hao tổn khá nhiều nhân lực. Nhân dân làng Thiện Kỵ bị chết đói không nhiều so với các làng, xã xung quanh, nhưng sức dân nhìn chung cạn kiệt: sản xuất bị đình đốn, ruộng đất phụ thuộc thiên nhiên, thóc giống dùng cho cứu đói đã hết…
Về chính trị: Uỷ ban lâm thời mới thành lập, chưa có kinh nghiệm, còn nhiều bỡ ngỡ. Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể bước đầu được củng cố kiện toàn, môi trường sinh hoạt mới mẻ, cán bộ thiếu, yếu, kinh nghiệm ít và còn nhiều bất cập. Những tệ nạn cũ để lại không dễ gì giải quyết xong trong ngày một, ngày hai. Thực dân Pháp tìm mọi cách luồn lách bảo vệ thuộc địa đã mất. Tháng 9/1945, hơn 20 vạn quân Tưởng, theo sau là bọn Việt Cách, Việt Quốc kéo vào miền Bắc nước ta. ở Nghệ An có hơn 1 vạn tên, ở Quỳnh Lưu chúng đóng ở các địa phương: Hoàng Mai (Thiện Kỵ), Cầu Giát, Sơn Hải… Hàng ngày, giặc Tàu Ô xua quân đi cướp các chợ, cố tình gây khiêu kích để bọn tay sai phản động ngóc đầu dậy chống phá chính quyền.
Về văn hoá - xã hội: Tệ nạn xã hội cũ để lại còn khá nặng nề: rượu chè, cờ bạc, ma chay, cưới xin… Bên cạnh đó địa chủ, phú nông vẫn duy trì nạn cho vay nặng lãi, thu tô cao. Gần 100 năm dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến để lại hậu quả nặng nề, trình độ dân trí thấp, nạn đói tràn lan. Chính quyền mới thành lập, những công việc đó đòi hỏi phải có thời gian.
Để ổn định tình hình khó khăn chung của đất nước, xây dựng chế độ cộng hoà, ngay sau ngày đọc Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp Chính phủ lâm thời đầu tiên ngày 3/9/1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đề ra 6 công việc cần kíp:
- Phát động ngay chiến dịch tăng gia sản xuất để cứu đói.
- Tổ chức tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu, thực hiện quyền dân chủ nhân dân.
- Mở ngay một phong trào chống nạn mù chữ.
- Mở phong trào giáo dục ý thức “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” để bài trừ thói hư tật xấu của chế độ thực dân để lại.
- Bỏ ngay thuế chợ, thuế thân, thuế đò, tuyệt đối cấm hút thuốc phiện.
- Tuyên bố tự do, tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết.()
I. NHững việc làm sau khi giành chính quyền.
1. Nhiệm vụ tập trung cần kíp lúc này là chống ba loại giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm:
Muốn giải quyết được 3 việc trên, yêu cầu cấp thiết là phải xây dựng, củng cố chính quyền. Chính quyền lâm thời và mặt trận Việt Minh làng Thiện Kỵ đẩy mạnh các hoạt động vận động mọi tầng lớp tham gia các đoàn thể cứu quốc. Đoàn thanh niên cứu quốc được hình thành từ thời kỳ tiền khởi nghĩa, nay hoạt động sôi nổi thu hút nhiều hội viên thanh niên nam, nữ gia nhập. Đoàn tập hợp thiếu niên nhi đồng lập đội Nhi đồng cứu quốc. Hội phụ nữ cứu quốc được thành lập, thu hút đông đảo các bà, các chị tham gia hoạt động. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nước nhà, phụ nữ được sinh hoạt bình đẳng như nam giới, bảo đảm được quyền lợi, nghĩa vụ của chị em. Các cụ phụ lão cũng không thua kém con cháu, tích cực tham gia mọi việc. Sau cách mạng, Thiện Kỵ vẫn hình thành 4 xóm: Xóm Đò, Hào Phú, Bình An và Vưu Mỹ, dân số hơn 1.000 người(). Các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia các công việc kinh tế - chính trị - xã hội.
Cứu đói, chống đói:
Ngày 28/9/1945, Hồ Chủ tịch kêu gọi: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước và xin được thực hành trước.
Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ăn 3 bữa, đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo.
Như vậy người nghèo sẽ có bữa cháo để chờ mùa lúa sau, khỏi đến nỗi chết đói. Tôi tin chắc rằng đồng bào ai cũng sẵn lòng cứu khổ, cứu nạn mà hăng hái hưởng ứng lời đề nghị nói trên”.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tất thảy mỗi người dân Thịên Kỵ đồng tâm cứu đói, mười ngày nhịn ăn một bữa. Nơi đây là vùng đất Nam Thanh - Bắc Nghệ, số người tha phương cầu thực đều dừng lại. Hội phụ nữ chủ trì, hàng ngày theo quy định, chị em đến từng nhà thu gom “hũ gạo cứu đói” sau khi thu gom tổ chức nấu cơm, cháo phân phát cho những người bị đói và những người qua đường. Nhịn ăn để cứu đói là phương pháp bất đắc dĩ nhưng lại vô cùng có ý nghĩa mang tính nhân văn.
Song song với cứu đói là việc đẩy mạnh tăng gia sản xuất. Uỷ ban hành chính cách mạng lâm thời đã ra lệnh bãi bỏ các khoản nợ cũ và những thứ thuế vô lý do chế độ cũ để lại, chia ruộng đất công, ruộng đất vắng chủ cho người cày; cùng với các đoàn thể đẩy mạnh tăng gia sản xuất, trước mắt trồng những cây ngắn ngày như khoai lang, rau, bầu, bí, ngô đậu. Nhiều sáng kiến mới trong sản xuất được áp dụng như trồng khoai lang ụ, trồng bí leo sàn… đạt năng suất cao. Phong trào khai hoang phục hoá phát triển mạnh mẽ. Các bờ mương, bụi rậm trên các sườn núi lâu nay bỏ hoang nay có bàn tay sức lao động của con người đã đâm chồi nẩy lộc: khoai sắn, đậu ngô… Nhờ sự chỉ đạo của chính quyền và các đoàn thể, chỉ hơn 4 tháng sau khi giành được chính quyền, nạn đói cơ bản được đẩy lùi.
Diệt giặc dốt:
Không biết chữ thì không thể nâng cao dân trí, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “giặc đói, giặc dốt là đồng minh của giặc ngoại xâm”. Nhân dân Thiện Kỵ nghe theo lời kêu gọi của Chính phủ và Hồ Chủ tịch hăng hái tham gia phong trào xoá nạn mù chữ với phương châm “người biết chữ dạy người không biết chữ”. Với lợi thế làng Thiện Kỵ có trường Tiểu học, Chính quyền đã thành lập Ban Bình dân học vụ xoá nạn mù chữ do ông Nguyễn Bá Mãn, trưởng ban (lúc này ông đảm nhiệm thư ký Uỷ ban hành chính kháng chiến); các thành viên là Nguyễn Bá Nghiêm, Nguyễn Bá Lân.
Các xóm cũng thành lập các tiểu ban:
Xóm Đò: ông Đậu Phi Đỉnh trưởng tiểu ban, tham gia dạy có các ông Đậu Ban, Đậu Phi Húa, Đậu Phi Lơi, Trần Hiêng,Trần Hạ.
Xóm Hào Phú: ông Mai Ngữ, trưởng tiểu ban; các ông tham gia là Hồ Sĩ Phước, Nguyễn Bá Bạc, Nguyễn Bá Khoa, Hồ Sĩ Lâm, Hồ Sĩ Ngọc, Lê Công Thếp…
Xóm Bình An: Nguyễn Bá Mãn, trưởng tiểu ban cùng các ông Nguyễn Duy Nuôi, Nguyễn Duy Đăng, Võ Đăng Lế, Nguyễn Văn Hơn, Nguyễn Bá Duân.
Xóm Vưu Mỹ: ông Trần Tiềm, trưởng tiểu ban cùng các ông Nguyễn Bá Toán, Nguyễn Bá Hưng, Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Bá Mậu, Nguyễn Văn Thuyết.
Ban và các tiểu ban cùng với các đoàn thể cứu quốc đã vận động các thầy, các em học sinh tích cực tham gia, khẩu hiệu, biểu ngữ được chăng lên khắp nơi công sở, nhà trường, đình miếu. Mỗi gia đình là một lớp học, mỗi người biết chữ là một giáo viên. Mỗi một công dân là một học sinh, tiền tuyến diệt xâm lăng, hậu phương trừ giặc dốt.
Nhiều câu ca dao được sáng tác động viên cho phong trào:
Lấy chồng biết chữ là tiên
Lấy chồng mù chữ là duyên lỡ làng
Lớp học được mở ra khắp nơi, đâu đâu cũng có lớp học, đêm đêm tiếng đánh vần ê-a lại vang lên ở các xóm.
O tròn như quả trứng gà
Ô thì đội nón, ơ thì mang râu
Lớp học có lúc chỉ 3 đến 5 người, không có bảng thì dùng ván, sân, bờ tường… thiếu phấn, thiếu bút dùng gạch non, than củi; không đèn thì dùng nhựa thông (Hoàng Mai có xưởng chế tạo nhựa thông của cụ Hội).
Với quyết tâm cao của chính quyền, các đoàn thể và nhân dân, sự tận tuỵ của hàng trăm cán bộ, giáo viên, học sinh trong đó có sự cố gắng lớn lao của ông Nguyễn Bá Mãn làm trưởng ban, chỉ trong một thời gian ngắn, hơn 60% số dân đã biết đọc, biết viết.
Tham gia các quỹ ủng hộ nước nhà.
Sau khi giành được độc lập, nền tài chính nước nhà trống rỗng. Muốn có chính quyền vững mạnh, Nhà nước phải có tài chính. Bởi vậy, từ ngày 17 đến 24/9/1945, Chính phủ đã tổ chức “tuần lễ vàng” và phát hành “công trái quốc gia”, “xây dựng quỹ độc lập”, nhằm động viên huy động sức dân ủng hộ Chính phủ vượt qua khó khăn về tài chính. Tiêu biểu cho những người mua công trái quốc gia qua các đợt ở Thiện Kỵ là ông Nguyễn Văn Thái (Thái Thoả) mua 5 tấn thóc trị giá bằng tiền, ông Hội Huân, Lý Luốn cũng mua 50 tạ. Bước qua đợt 2, dẫn đầu vẫn là ông Nguyễn Văn Thái, bà Lê Thị Tâm, Nguyễn Văn Hơn… Các ông, các bà được tổ chức trao tặng khen thưởng ở đình Quý Vinh.
Nhiều bà, nhiều chị đã đưa những kỷ vật quý bằng vàng, bạc để ủng hộ Nhà nước, ai không có vàng thì nồi đồng, lư hương, cây nến là những kỷ vật thiêng liêng thờ cúng gia tiên mà họ cũng không tiếc, tất cả vì độc lập, tự do của dân tộc. Tiêu biểu cho tuần lễ vàng là các bà Nguyễn Thị Nhuỵ (vợ ôngTần) một cây vàng, Nguyễn Thị Hiền (Hào Phú) một chỉ vàng, Nguyễn Thị Mai (xóm Đò) một chỉ vàng, Nguyễn Thị Lượng (Bình An) một bộ xà tích bằng bạc…
Nhiều câu ca dao được sáng tác đáp ứng yêu cầu cuộc vận động quyên góp:
Đem vàng đổi súng cối xay
Bắn tan giặc nước, dựng ngày vinh quang
Từ khi giành được chính quyền 19/8/1945 đến hết tháng 12/1945, nhân dân Thiện Kỵ dưới sự chỉ đạo của chính quyền và vận động năng nổ của các tổ chức đã làm được một số việc đáng tự hào. Nạn đói được ngăn chặn, giặc dốt đang được đẩy lùi, góp sức xây dựng công quỹ cho nền độc lập. Chính quyền, đoàn thể có thêm kinh nghiệm để vượt qua mọi thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
2. Củng cố tổ chức, xây dựng chính quyền, đoàn thể:
Để xây dựng chính quyền thực sự là của dân, do dân, vì dân, Hồ Chủ tịch đã ban hành Sắc lệnh tổ chức Tổng tuyển cử trong cả nước, bầu ra Quốc hội.
Ngày 6/1/1946, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, cử tri từ 18 tuổi trở lên không phân biệt nam, nữ được thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của người công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Họ tự tay cầm lá phiếu bầu người đại biểu mà mình tín nhiệm vào cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội.
Nhân dân Thiện Kỵ náo nức, các xóm, nơi địa điểm bỏ phiếu được trang hoàng lộng lẫy, cờ, biểu ngữ, danh sách ứng cử viên được niêm yết.
Cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên có số lượng ứng cử nhiều, bởi vậy để tập trung, Ban Bầu cử phải vận động để cử tri tập trung lá phiếu cho những người xứng đáng đại diện cho quyền lợi của đa số nhân dân. Ban Bầu cử giành nhiều thời gian tuyên truyền vận động, hội họp, nói rõ mục đích nguyên tắc bầu cử… Nhân dân các xóm thảo luận sôi nổi, bàn luận bầu những đại biểu xứng đáng.
Cuộc bầu cử diễn ra như một ngày hội. Đúng giờ quy định, các đoàn thể, các cử tri đã có mặt đông đủ làm nghi thức, sau đó tiến hành ghi danh sách cử tri, phát phiếu bầu.
Nhiều cụ già hoặc người bị tàn tật, mặc dù có hòm phiếu cơ động đưa đến nơi nhưng họ vẫn bảo con cháu dìu dắt đến địa điểm để tự tay cầm lá phiếu bỏ vào hòm phiếu. Kết quả gần 100% cử tri đi bỏ phiếu, bầu đúng người, xứng đáng đại diện cho nguyện vọng và ý chí của nhân dân.
Sau bầu cử Quốc hội là bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp; cấp tổng được giải thể, các làng được hợp nhất. Hai làng Thiện Kỵ và Dị Nậu được hợp nhất thành xã Văn Hoá. Tháng 4-1946, Uỷ ban hành chính xã() được Hội đồng nhân dân xã bầu thay cho Uỷ ban hành chính lâm thời gồm các ông sau:
Đậu Phi Tuy Chủ tịch, sau đó Nguyễn Bá Thuận
Hồ Sỹ Kế, Hồ Mưu Phó Chủ tịch
Hồ Phi Quyền Uỷ viên tư pháp
Hồ Cư Nghi Uỷ viên phụ trách công an
Nguyễn Đình Mậu Uỷ viên phụ trách văn hoá
Nguyễn Trọn Uỷ viên phụ trách thủ quỹ
Nguyễn Ngượu Uỷ viên thư ký phụ trách Việt Minh
Uỷ ban hành chính được kiện toàn, các đoàn thể cứu quốc được tập hợp trong mặt trận Việt Minh làm hậu thuẫn cho chế độ mới. Mặc dù thế lực chính trị của giai cấp thống trị cũ đã bị đập tan nhưng ý đồ thực dân Pháp xâm chiếm lại nước ta đang trở thành hiện thực thì các đoàn thể phải quân sự hoá, đặc biệt là lực lượng thanh niên cứu quốc, tự vệ của các thôn, xóm hình thành, được trang bị vũ khí và được tập luyện thường xuyên. Nhờ xây dựng lực lượng tự vệ mà trong các xóm làng, tình hình trật tự an ninh được giữ vững.
Để có sự chỉ đạo, lãnh đạo tập trung, yêu cầu bức thiết của xã Văn Hoá phải có chi bộ Đảng để lãnh đạo. Được sự chỉ đạo trực tiếp của Huyện uỷ Quỳnh Lưu, đồng chí Hồ Viết Thắng, Bí thư Huyện uỷ đã ra quyết định kết nạp lại đảng viên thời kỳ 1936-1939 gồm Nguyễn Bá Nghiêm, Văn Sỹ Thọ và kết nạp những thanh niên tân tiến Nguyễn Thị Cớn, Nguyễn Đức Nhuận… vào Đảng.
Ngày 18/9/1946, với sự có mặt của đại diện Huyện uỷ, chi bộ xã Văn Hoá được thành lập, bí thư chi bộ đầu tiên là đồng chí Nguyễn Bá Nghiêm. Chi bộ Đảng ra đời là một sự kiện lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, góp phần vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Sang năm 1947, kết nạp thêm các đồng chí Nguyễn Tượu, Nguyễn Ngượu, Nguyễn Nhự (Quỳnh Dị). Những đảng viên đầu tiên của chi bộ (15 đồng chí) thực sự là người đứng mũi chịu sào trong tất thảy các công việc: xây dựng chính quyền, mặt trận và các đoàn thể. Để không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hàng năm chi bộ tiếp tục bồi dưỡng và kết nạp được nhiều đảng viên().
II. kháng chiến chống thực dân Pháp:
“Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm chiếm nước ta một lần nữa.
Không! chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946 của Hồ Chủ tịch đã thấm vào máu thịt của mỗi người dân Việt Nam. Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Hoàng Mai nằm trong vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, hậu phương lớn của cả nước và của các chiến trường Đông Dương. Thực dân Pháp tìm mọi cách phá hoại hậu phương, chúng cho máy bay ném bom các làng xã ven quốc lộ 1A, cho tàu chiến uy hiếp ven biển, đường sông. Ngoài ra chúng còn thả biệt kích xuống vùng rừng núi phía Tây, khuyến khích các tổ chức phản động đội lốt tôn giáo hoạt động, chống phá và sẵn sàng làm nội ứng khi chúng đổ bộ.
1- Công tác tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể trong 9 năm kháng chiến:
Công tác Đảng, chính quyền: Chi bộ Đảng được thành lập năm 1946; đến năm 1947, để có sự thống nhất lãnh đạo, các xã Văn Hoá và làng Quý Vinh được hợp nhất thành xã Vinh Hoa, đồng chí Nguyễn Bá Nghiêm làm Bí thư. Sau đó, đồng chí Nghiêm được nhận nhiệm vụ mới, đồng chí Nguyễn Tượu (1948) thay. Chính quyền có các ông:
Ông Nguyễn Bá Mởn Chủ tịch.
Ông Nguyễn An Thoà Phó Chủ tịch()
Ông Hồ Phi Tuốt Uỷ viên văn hoá
Ông Hồ Sỹ Phiên Uỷ viên phụ trách tài chính
Năm 1948, xã Vinh Hoa sát nhập thêm xã Quỳnh Trang và các xóm Yên Lộc, Yên Trạch (Quỳnh Hợp - Mai Hùng) lập lên xã Quỳnh Mai.
Lần lượt các đồng chí: Nguyễn Tượu, Nguyễn Kiên, Nguyễn Huấn làm Bí thư.
Trực Đảng: Đồng chí Nguyễn Bá Mãn từ năm 1951, sau đó lần lượt: Nguyễn Kiên, Nguyễn Bá Hưng.
Các ông Chủ tịch xã Quỳnh Mai:
Nguyễn Bá Hiềng (1948), Đậu Phi Duyên (1949), Hồ Mưu, Nguyễn Bá Thóng (1950-1952), Trần Lưu (1953-1954)
Các ông Phó Chủ tịch:
Nguyễn Bá Mậu, Mai Trường Khánh, Nguyễn Thị Danh
2- Những việc làm trong 9 năm kháng chiến:
Sau ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), làng Thiện Kỵ đã hình thành mỗi xóm một trung đội dân quân. Đây là lực lượng chủ công để bảo vệ, xây dựng chế độ và tham gia vào công việc tiêu thổ để kháng chiến. ở Nghệ An, trước hết là tiêu thổ thành phố Vinh, san phẳng bình địa, không cho thực dân Pháp có điều kiện chiếm đóng. Hoàng Mai có ga tàu, quốc lộ 1A, cửa biển... là mục tiêu để phá và dựng chướng ngại vật. Vùng Hoàng Mai tổ chức ban chỉ huy tiêu thổ kháng chiến do ông Nguyễn Ngọc Dân, Nguyễn Duy Du, Phan Ngọc Yên chỉ huy. Mỗi xã có một uỷ viên phụ trách. Nhiệm vụ là phá đường tàu, bốc thanh ray, toà vẹt, vận chuyển về rào cửa Lạch Cờn, cắm cọc ở bãi trống. Sau đó, ban chỉ huy cử người đi học các mô hình rào làng kháng chiến theo mô hình làng Cự Nẫm (Quảng Bình).
Theo sự điều hành của cán bộ xã đội, hàng ngày từng tốp nam, nữ thay nhau đi tiêu thổ thành phố Vinh; làng Thiện Kỵ do ông Võ Đăng Lế chỉ huy. Trên quê hương, hàng trăm người thay nhau đào, tháo gỡ toà vẹt, thanh ray, vận chuyển xuống Lạch Cờn, đóng nhiều cọc tre ở vùng Đập Kỵ phòng địch đổ bộ bằng đường không. Việc đào đường, đặt chướng ngại vật trên quốc lộ 1A đòi hỏi nhiều công sức và thời gian. Các đoạn đường phải đào cắt theo hình chữ Z, muốn làm được phải có dụng cụ tốt. Ngoài lực lượng thanh niên, dân quân tự vệ, các cụ già và các cháu thiếu niên cũng hăng hái tham gia vào công tác phá hoại, nhà ga, đồn nhà đoan Ngọc Huy. Công việc vất vả, nhưng đến đầu năm 1948 đã hoàn thành, cả vùng Bắc Hoàng Mai được tỉnh khen thưởng.
Để có lực lượng tại chỗ kịp thời đánh thắng địch đổ bộ bằng đường biển, đường không, lực lượng dân quân du kích được hình thành theo Sắc lệnh ngày 22/3/1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Sắc lệnh chỉ rõ: Ngoài lực lượng tự vệ chiến đấu, nay huy động thanh niên từ 18 tuổi (nam đến 45, nữ đến 35 tuổi) đều gia nhập lực lượng dân quân, mỗi xóm có một trung đội, dưới sự chỉ huy của Ban quân sự xã.
Lực lượng dân quân du kích luyện tập thường xuyên (có cố vấn quân sự là các cựu lính lê dương hướng dẫn) với các động tác đi đều, lăn lê, bò toài, tập hành quân, thao tác bắn súng, ném lựu đạn, đặt mìn, đâm chém bằng kiếm, đại đao. Tập duyệt các phương án: bố phòng, đánh địch đổ quân vào địa bàn, diệt chốt, hướng dẫn dân sơ tán …
Năm 1947, cơ quan quân sự huyện được thành lập. Từ đây, công tác quân sự địa phương càng được chú trọng hơn để đối phó với mọi âm mưu và hành động của thực dân Pháp và bọn tay sai. Cuối năm 1947, huyện đã xây dựng được một đại đội bộ đội địa phương trên cơ sở các đội dân quân du kích (gọi là C120 bộ đội địa phương huyện). Đại đội có 3 trung đội. Một trung đội đóng ở Thanh Viên, chốt chặn cầu Ngò (Sơn Hải), một trung đội đóng ở vùng Phú Hậu bảo vệ cơ quan huyện và một trung đội đóng ở Thiện Kỵ có nhiệm vụ chốt chặn bến đò Phương Cần (nay là cầu Quỳnh Phương) và bến đò Cái (nay là cầu Hoàng Mai) ().
Cơ quan quân sự huyện được thành lập, có bộ đội đóng trên địa bàn, công tác quân sự ở Thiện Kỵ và vùng Bắc Hoàng Mai được huấn luyện bài bản hơn, kết hợp với bộ đội, dân quân du kích tăng cường phòng gian bảo mật, được phân công cắt cử chu đáo: một tiểu đội dân quân du kích được phân công trực chiến ngày đêm ở cầu Đò Cái sẵn sàng chiến đấu.
Nhằm tạo thêm thực lực cho cuộc kháng chiến, liên tục trong 9 năm kháng chiến, Chính phủ và Hồ Chủ tịch đã có những sắc lệnh và kêu gọi toàn dân đóng góp để nuôi lực lượng vũ trang: Năm 1948, Chính phủ ban hành 4 chính sách mới. Quỹ thóc công thương, mỗi người góp 10kg thóc. Nhờ mưa thuận gió hoà, lúa, hoa màu đều đạt khá, nhân dân Thiện Kỵ hoàn thành chỉ tiêu của trên giao. Công phiếu kháng chiến được phát hành tháng 7/1948, bao gồm các mệnh giá 100 đồng, 200 đồng, 500 đồng. Công phiếu được phát hành trong 5 năm với lãi suất 3%, đến hạn Nhà nước trả cả gốc và lãi cho người mua. Nhờ làm tốt cuộc vận động nên nhân dân tích cực hưởng ứng, nhất là những nhà có của đã mua với mức cao, đứng đầu vùng Hoàng Mai như ông Nguyễn Văn Thái (Thiện Kỵ)(). Lần đầu tiên sau khi giành được chính quyền, Nhà nước ban hành sắc thuế điền thổ. Việc thực thi sắc thuế này có nhiều phức tạp, vì phải kê khai tính toán tỉ mỷ. Do chính sách mới, chi bộ, chính quyền và các đoàn thể phải tập trung chỉ đạo, động viên, hầu hết nhân dân đóng đủ, nhưng một số điền chủ nhiều ruộng tìm cách dấu diện tích để trốn thuế. Họ yêu cầu phải có địa bạ, trích lục ruộng đất trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, cố tình dây dưa. Nhờ sự thuyết phục và sự kiên quyết của chính quyền nên thuế được thu đúng thời gian quy định. Đảm phụ kháng chiến mỗi công dân đóng góp 200 đồng, rút kinh nghiệm của các đợt, chi bộ có chủ trương, chính quyền có biện pháp, các đoàn thể tích cực vận động, trong một thời gian ngắn chỉ tiêu của trên đề ra được hoàn thành.
Chủ động phòng thủ chiến đấu bảo vệ quê hương:
Sau chiến thắng Thu - Đông Việt Bắc năm 1947, thực dân Pháp buộc phải chuyển hướng chiến tranh từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang đánh lâu dài. Để hỗ trợ cho chiến trường Việt Bắc, địch chủ trương đánh mạnh để làm chủ vùng đồng bằng Bắc bộ, đồng thời mở các cuộc hành quân đánh phá, quấy rối hậu phương của ta (chủ yếu là vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh), hòng ngăn chặn sự chi viện sức người, sức của cho các chiến trường.
Hội nghị mở rộng Ban chấp hành Trung ương Đảng (1948), Hội nghị cán bộ (tháng 5/1948 và tháng 8/1948), đã nêu rõ phương hướng và những giải pháp lớn để đẩy mạnh cuộc kháng chiến: về quân sự, đẩy mạnh chiến tranh du kích. Củng cố xây dựng hậu phương vững chắc là một trong những nhiệm vụ quan trọng của quân và dân ta.
Quân khu IV và Tỉnh uỷ Nghệ An nắm bắt chủ trương của Trung ương Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo quân và dân trong tỉnh luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống khi địch tăng cường phá hoại vùng tự do. Thời kỳ này từ Nghệ An đến Hà Tĩnh, chúng đã cho máy bay, tàu chiến và đổ quân tập kích nhỏ vào các xã ven biển. Tháng 6/1947, chúng đổ quân khoảng 12 tên tập kích xóm Trại (đầu cửa Lạch Cờn, Quỳnh Phương) bắt đi một số dân thường và thiêu trụi hơn 40 nóc nhà. Sang năm 1949, chúng cho máy bay ném bom xuống chợ Ngò (Sơn Hải), chợ Nồi (Quỳnh Đôi), nhà thờ họ Bùi ở xóm Bắc Lợi (An Hoà) làm nhiều người chết và bị thương.
Âm mưu của chúng là thăm dò lực lượng bố phòng để đổ bộ, quấy phá hậu phương kháng chiến, đồng thời thăm dò lực lượng ứng phó và làm phân tán lực lượng chủ lực của ta để chúng tập trung quân vào vùng trọng điểm đồng bằng Bắc bộ. Trước âm mưu của kẻ địch, các chòm(), các xã trong huyện sát nhập tạo thế liên hoàn, chỉ huy tập trung để đánh địch tại chỗ. Vùng Hoàng Mai, các xã Quỳnh Vinh - Quỳnh Thiện - Quỳnh Dị - Quỳnh Trang và hai làng Yên Lộc, Yên Trạch (Quỳnh Hợp) hợp thành xã Quỳnh Mai; các xã Quỳnh Xuân, Quỳnh Văn, Quỳnh Liên và một phần Quỳnh Bảng thành xã Song Quỳnh; Quỳnh Lộc, Quỳnh Lập thành xã Hữu Lộc… Các xã nhập lại tạo nên thế trận liên hoàn để đối phó với âm mưu của địch đánh chiếm vùng tự do của ta.
Huyện đội tăng cường công tác chỉ đạo và tập huấn quân sự theo chủ trương “rèn cán chỉnh quân”. Từ ngày 1- 4/10/1949, Huyện đội triệu tập cán bộ cấp xã, xã đội cùng toàn đại đội C120 bộ đội địa phương tập huấn ở làng Quỳnh Đôi, triển khai các phương án đánh địch bằng đường không, đường biển. Hội nghị nhận định: Địch sẽ đổ quân vào địa bàn. Chiều ngày 4/10/1949, cuộc Hội nghị tập huấn kết thúc, những xã ở xa chưa kịp nhận vũ khí tại xưởng đúc vũ khí ở Quỳnh Hưng, có xã ở xa phải nghỉ lại thì chiến sự đã nổ ra.
Trận càn tháng 10/1949 của thực dân Pháp:
Khoảng 4-5 giờ sáng ngày 5/10/1949, thực dân Pháp tiến hành đổ bộ vào Quỳnh Lưu với âm mưu:
Một là: diệt cơ quan đầu não của huyện đóng tại Quỳnh Anh (Quỳnh Anh gồm ba xã Quỳnh Đôi, Quỳnh Thanh, Quỳnh Yên sát nhập đầu năm 1949).
Hai là: phá hoại cơ sở vật chất, quấy rối hậu phương khuyếch trương thanh thế của Chính phủ bù nhìn Bảo Đại.
Ba là: nếu có điều kiện thì chiếm đóng lâu dài, mở rộng vùng chiếm đóng theo vết dầu loang.
Chúng huy động trên 1.000 quân, trong đó một nửa là lính Âu - Phi, còn lại là lính nguỵ với sự yểm trợ của 5 tàu chiến, 5 máy bay phản lực, một hàng không mẫu hạm túc trực ngoài khơi; khi vào nội địa có Việt gian dẫn đường chỉ điểm.
Địch đổ quân theo hai hướng chính: Lạch Cờn và Lạch Thơi, mục tiêu là hợp quân tại Quỳnh Đôi.
Hướng Lạch Cờn, khoảng 4 giờ sáng, địch cho quân đổ bộ lên chòm Hữu Nam (Quỳnh Liên). Sau khi hàng loạt phát đại bác đã bắn vào đất liền, dân quân du kích Văn Phương đã nhanh chóng triển khai lực lượng, chốt chặt ở khe Lở (giáp ranh Quỳnh Phương - Quỳnh Liên) không cho địch vào làng Phương Cần. Chúng hành quân qua làng Ngọc Huy (xóm 1- Mai Hùng) vượt sông Mơ sang làng Kim Lung. Do bị bất ngờ, dân chưa kịp sơ tán, chúng lùng sục vào các nhà bắt người, bắt bò, lấy tơi, nón, quần áo nguỵ trang giả làm dân sơ tán tiến thẳng lên Động Kiều, đi theo ven núi, đến Dốc Giữa (Quỳnh Xuân) chúng vòng lên quốc lộ 1A. Lúc địch lên, quân dân xã Quỳnh Mai đã tăng cường lực lượng, điều một tiểu đội cảm tử quân chốt chặt bến Đò Cái (nay là cầu Hoàng Mai); tăng cường lực lượng đón chặn cầu Sòi, tổ chức dân quân tập trung ở bến đò Cờn, bố trí trận địa mìn tại các địa điểm địch có thể đi qua để tiêu diệt địch. Nhưng địch không ra Quỳnh Mai mà tập trung lực lượng chiếm Quỳnh Anh (Quỳnh Đôi – Yên - Thanh).
Trung đội bộ đội địa phương do Nguyễn Huệ chỉ huy hành quân ra Hoàng Mai gặp địch tại cầu Trốc Voi (dưới dốc Thông trở về phía Bắc). Trận chiến diễn ra ác liệt, hai bên đánh giáp lá cà. Quần lộn với nhau hơn một giờ, ta tiêu diệt 13 tên, phía ta hy sinh 8 chiến sỹ. Do lực lượng quá chênh lệch, trung đội phân tán vào các làng, xã phối hợp với dân quân du kích tiếp tục chiến đấu.
Tại Quỳnh Mai địch không vào, ngay sáng ngày 6/10/1949, đồng chí Nguyễn Ngọc Yên, Bí thư Huyện uỷ đã triệu tập một cuộc họp khẩn cấp tại Quỳnh Vinh, thành phần là cốt cán của các xã vùng Hoàng Mai. Cuộc họp nhận định tình hình địch và tổ chức một đại đội cảm tử quân bao gồm những dân quân dũng cảm biết về quân sự, tình nguyện xung phong đánh địch. Đại đội do đồng chí Võ Đăng Lế chỉ huy chi viện cho phía Nam, nhưng địch đã rút ra biển.
Trong thời gian ba ngày, địch đã tràn qua 12 xã, tàn phá giết hại 151 dân thường, 108 người bị địch bắt đi cùng nhiều trâu, bò, lợn, gà; 50 người bị thương, bộ đội, dân quân du kích hy sinh 20 chiến sỹ; chúng đốt 674 nóc nhà, 135 thuyền cùng công cụ đánh cá và phá nhiều ô nại muối. Chúng ta đã tiêu diệt 113 tên, trong đó có 63 lính Pháp - âu Phi và nhiều tên bị thương, bọn chúng buộc phải rút ra biển vào ngày 7/10/1949.
Trận chống càn của quân và dân Quỳnh Lưu kết thúc thắng lợi, có ý nghĩa lớn: bảo vệ được hậu phương, không cho chúng đứng chân lâu dài trên vùng tự do. Điều đó khẳng định, dưới sự chỉ đạo của huyện, với lực lượng hiện có, chúng ta vẫn giữ được hậu phương vững chắc, chưa cần đến sự chi viện của trên.
Tuy bị thất bại trong trận càn tháng 10/1949, nhưng thực dân Pháp vẫn không từ bỏ phá hoại hậu phương vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh. Chúng vẫn thường xuyên cho máy bay trinh sát bắn phá, cho biệt kích đột nhập bằng đường biển, quấy rối hậu phương, gây khó khăn cho chúng ta về mọi mặt.
Tổ chức bảo vệ xóm làng, bảo vệ sản xuất là nhiệm vụ thường xuyên liên tục trong suốt 9 năm kháng chiến, được cấp uỷ, chính quyền và các đoàn thể quan tâm. Thực dân Pháp không đổ quân quấy rối trên đất liền được, chúng lại cho tàu chiến, ca nô phong toả mặt biển, dùng những toán nhỏ tập kích đổ bộ bằng đường biển, đường không. Đặc biệt khi quân và dân ta chuẩn bị mở chiến dịch Thượng Lào, chuẩn bị tấn công tập đoàn Điện Biên Phủ, chúng càng tăng cường quấy phá hậu phương.
Năm 1951, chúng cho máy bay ném bom xuống phố Hoàng Mai 8 quả, bom trúng vào các nhà ông Huớ, bà Xân, ông Phiên, ông Chánh, ông Thơi…, làm chết một số người: Nguyễn Thị Tròn, Nguyễn Bá Hựa, bà Thái, con bà Thái, ông Đậu Phiên, bà Phong Tịnh…, làm bị thương bà Đậu Thị Đuồn, ông Nguyễn Bá Trường, ông Đậu Đức Khoan. Tháng 2 năm 1951, nhân dân đi làm, lúc đi trên quốc lộ 1A bị máy bay ném bom, làm chết ông Nuôi Thạnh, ông Nguyễn Ngọc Cẩn bị thương.
Tháng 3 năm 1953, địch đổ quân vào Phương Cần (Văn Phương), chúng chiếm đỉnh cao núi Hùng Vương làm Sở chỉ huy, sau đó chia ra hai mũi tấn công và hợp điểm tại Đền Cờn. Chúng đi đến đâu đều gây tội ác dã man. Dân quân du kích Văn Phương chiến đấu dũng cảm, nhưng địch hơn về vũ khí, chiến thuật nên phía ta hy sinh 13 chiến sỹ du kích, 12 dân thường bị giết hại, rồi chúng rút lui ra biển.
Tại làng Thiện Kỵ, địch cũng gây ra nhiều tội ác, máy bay địch ném bom bắn phá vào các xóm, đồng ruộng… làm chết người, gia súc, phá hoại nhiều nhà cửa, phương tiện sản xuất, điển hình là vụ ném bom vào nhà ông Xuân, làm 8 người chết.
Trước sự gia tăng đánh phá của địch, chi bộ Đảng, chính quyền xã Quỳnh Mai càng nâng cao cảnh giác. Các vị trí tiền tiêu xung yếu như bến Đò Cái (cầu Hoàng Mai), bến đò Phương Cần, Cầu Sòi (Quỳnh Lộc), Mỏ Kẽm được cài chông mìn, tăng cường lực lượng túc trực cả ngày lẫn đêm. Các trạm gác liên hoàn được bố trí để đối phó với địch.
Sau chiến dịch Thượng Lào (1952 - 1953), chiến cục Đông Xuân (1953 - 1954) được mở ra, địch tăng cường quấy rối vùng tự do, tuy với quy mô nhỏ nhưng khá phức tạp. Mục đích của chúng là nghi binh, đánh lạc hướng làm ta bị động, phân tán chủ lực, không tập trung lực lượng cho các chiến dịch lớn. Vùng Hoàng Mai, địch dựa vào núi rừng hiểm trở ở phía Tây nơi có giáo dân, trong đó có một số phần tử đội lốt tôn giáo để lén lút hoạt động chống phá cách mạng như ở Yên Hoà-Trang Họ, do các tên cầm đầu: Trần Đình Phúc, Trần Đình Hiên chỉ huy, chỉ điểm.
Với địa hình và cơ sở đó, 18 giờ ngày 5/10/1953 (âm lịch) (), thực dân Pháp cho máy bay thả dù tung gián điệp xuống Đồng Lách, Quỳnh Mai. Do có sự cảnh giác cao, các đài quan sát cùng với đồng bào dân tộc báo tin: sau 4 lần liên tiếp thả dù, 19 tên biệt kích đã tiếp đất an toàn, ngay sau đó chúng tìm cách móc nối liên lạc với những phần tử phản động ở nhà thờ Quan Sơn-Tĩnh Gia, Thanh Hoá, nhà thờ Yên Hoà, Trang Họ (Quỳnh Trang), tên Nguyễn Sơn cầm đầu toán biệt kích.
Ngay từ phút đầu, do có sự chuẩn bị, quân dân xã Quỳnh Mai đã theo dõi sát sao mọi diễn biến của kẻ thù và kịp thời báo cáo cấp trên. Nhận được tin báo, Huyện đội đã cử đồng chí Nguyễn Tường trực tiếp chỉ huy, đơn vị chủ lực huyện hợp đồng tác chiến với dân quân xã Quỳnh Mai.
Các đồng chí: Nguyễn Tượu, Bí thư chi bộ; Trần Lưu, Chủ tịch, Nguyễn Bá Mậu, Mai Trường Khánh, Phó Chủ tịch cùng các đồng chí trong Ban chỉ huy Quân sự xã Quỳnh Mai : Nguyễn Bá Toán, Võ Đăng Lế, Nguyễn Văn Việng… đã trực tiếp chỉ huy; kịp thời huy động lực lượng 150 du kích vây bắt kẻ thù. Ngay khi địch tiếp đất, trinh sát cùng bà con dân tộc và dân quân du kích của làng Đá Bạc theo dõi từng hành vi hoạt động của chúng, ta đã nổ súng tiêu diệt tên làm nhiệm vụ trinh sát. Số còn lại tản ra nhiều toán tìm đường tẩu thoát. Bộ đội và các mũi xung kích của dân quân vùng Hoàng Mai, được sự giúp đỡ của bà con dân tộc đã truy đuổi kẻ thù.
Một toán địch ba tên chạy về bến Bần (sông Hoàng Mai, địa phận Quỳnh Trang) được ông Lê Đình ý dẫn đường, dân quân đã tóm gọn ba tên. Sau gần nửa tháng truy lùng, chúng ta đã vây bắt 17 tên, tiêu diệt một tên, một tên trốn vào Diễn Hạnh, Diễn Châu cũng bị bắt. Phía ta hy sinh ba chiến sỹ, trong đó có dân quân Vi Văn Lá, người dân tộc Mãn Thanh. Trong chiến công này có sự đóng góp chỉ đạo của chi bộ, chính quyền nhân dân xã Quỳnh Mai. Tiêu biểu như các ông Nguyễn Bá Hưng, Võ Đăng Lế (Thiện Kỵ), Nguyễn Đình ý, Lê Sỹ Thái (Quỳnh Trang), Lê Đức Đượm (Quỳnh Hợp - Mai Hùng)…
Ngày 20/12/1953, thực dân Pháp kết hợp với bọn cướp biển Tưởng Giới Thạch tập kích vào 2 xã Hữu Lộc, Văn Phương và vùng Hoàng Mai, chúng bị nhân dân 2 xã chống trả quyết liệt, buộc phải rút ra biển, phía ta hy sinh 20 người, chủ yếu là nhân dân xã Văn Phương.
Trong 9 năm kháng chiến, đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể xã Quỳnh Mai đã lãnh đạo, chỉ đạo, động viên nhân dân bảo vệ quê hương, kẻ địch xâm phạm bị tiêu diệt, đó là sự nối tiếp truyền thống chống giặc ngoại xâm hàng ngàn năm của dân tộc. Đặc biệt là từ ngày có Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, nhân dân đã một lòng đi theo Đảng, truyền thống đấu tranh được phát huy và nâng cao, tô thắm trang sử quê hương.
Trên mặt trận kinh tế - xã hội phục vụ cho cuộc kháng chiến.
Vấn đề phát triển sản xuất ở Quỳnh Lưu trong kháng chiến chống thực dân Pháp được đặt lên hàng đầu và trở thành một trong những nhiệm vụ chủ yếu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, động viên của các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể từ huyện xuống cơ sở.
Trong phát triển sản xuất nông nghiệp, vấn đề ruộng đất được xem là vấn đề then chốt. Huyện uỷ đã chỉ đạo các cơ sở tập trung ba việc:
Một là: Khai hoang phục hoá những diện tích bỏ hoang.
Hai là: Chia ruộng đất vắng chủ cho nông dân không có ruộng hoặc thiếu đất canh tác.
Ba là: Thực hiện các chủ trương của Đảng, Chính phủ ban hành theo luật thời chiến.
Nhằm động viên và hướng mọi năng lực, nhiệt tình cách mạng của toàn dân, toàn quân ở hậu phương cũng như tiền tuyến vào mục đích đẩy mạnh cuộc kháng chiến, ngày 27/3/1948, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị phát động phong trào “Thi đua ái quốc” (). Trung ương Đảng chỉ rõ “Mục đích thi đua ái quốc là làm sao cho kháng chiến mau đến thắng lợi, kiến quốc chóng thành công”.
Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh có đoạn: “Bổn phận của người Việt Nam, bất kỳ sỹ, nông, công, thương, binh, bất kỳ làm việc gì đều cần phải thi đua. Thi đua ái quốc giúp ta dẹp tan mọi khó khăn và mọi âm mưu của kẻ địch”(). Bác còn giải thích thêm về phong trào thi đua ái quốc, “chính là dùng tinh thần hăng hái của toàn dân để tìm cách giải quyết sự yếu kém về vật chất, đưa cuộc kháng chiến mau đến thắng lợi"().
"Để toàn dân đủ ăn, đủ mặc, toàn dân biết đọc biết viết, bộ đội đầy đủ lương thực, khí giới giết thực dân. Như thế là kháng chiến chóng thành công, toàn quốc chúng ta sẽ độc lập, thống nhất hoàn toàn, hoàn toàn tự do, nước được giàu, dân được mạnh"().
Thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng và lời kêu gọi của Bác về “phong trào thi đua ái quốc” và các việc cần tập trung giải quyết ở vùng tự do, chi bộ, Chính quyền xã Quỳnh Mai đã xác định: tiềm năng về đất ở địa bàn lớn. Vì vậy, công tác khai hoang để mở rộng diện tích trồng trọt được chú ý ngay sau khi có chính quyền cách mạng, các hộ nông dân được tự do mở mang diện tích và được miễn thuế trong những năm đầu khai hoang. Các vườn chè, chuối trồng trên các triền núi được phục hồi, chăm bón trở lại xanh tươi như sức sống mới. Tiếp theo là cuộc vận động tăng gia sản xuất, “vụ mùa chủ lực”, “vụ chiêm quyết thắng”, được phát động sôi nổi nhằm tăng năng suất cây trồng, bảo đảm lương thực, thực phẩm cho nhân dân, bộ đội và cung cấp cho kháng chiến.
Cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ là sự thử thách đối với mỗi người Việt Nam, một số người cố tình chống lại cách mạng, chính quyền đã cương quyết lấy lại ruộng đất để chia cho nông dân, tuy số ruộng được chia không nhiều nhưng đã động viên tinh thần hăng hái, cách mạng của nhân dân.
Từ năm 1950, xã Quỳnh Mai thực hiện giảm tô 25% đối với những người nhiều ruộng: ông Đậu Phi Duyên 24 mẫu, ông Đậu Phi Duyễn (bang tá tổng) 19 mẫu, ông Nguyễn Thế Vinh 7 mẫu… Các ông đều tích cực thực hiện chính sách của Đảng. Bước sang năm 1952, việc giảm tô được thực hiện với biện pháp phát động quần chúng đấu tranh, bước đầu hạ uy thế của địa chủ. Bần, cố nông được chia ruộng đất và một số tư liệu sản xuất.
Nhằm đẩy mạnh, hỗ trợ cho sản xuất phát triển, các tổ đổi công bước đầu được hình thành các hợp tác. Hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng được thành lập ở Quỳnh Mai. Đây là những thành phần kinh tế mới tạo tiền đề cho thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Cùng với những việc làm trên, nhân dân xã Quỳnh Mai tích cực mua công trái quốc gia, công phiếu kháng chiến, mua lúa khao quân hay lập “quán quân nhân”. Ông Đậu Phi Thiện ủng hộ bộ đội 5 quan tiền.
"Quán quân nhân" do bà Hoàng Thị Tâm phụ tránh, phục vụ bộ đội trên chặng đường hành quân nghỉ lại, để lại những dấu ấn tình cảm quân dân thắm thiết, góp phần cổ vũ, động viên tinh thần chiến đấu của bộ đội. Các “quán quân nhân” được Bác Hồ gửi thư khen.
Sau giảm tô là thực hiện thuế nông nghiệp, đây là lần đầu nên phải thông qua dân để học tập chủ trương, bồi dưỡng nghiệp vụ cho những người am hiểu ruộng đất. Tuy vậy chúng ta cũng phải nhờ vào các lão nông tri điền tham gia giúp việc, phân mảnh, định hạng, bình chênh lệch ruộng tốt, ruộng xấu. Những ruộng đất đa dạng, phức tạp, chòm phải tập trung để có bộ thuế hoàn chỉnh theo nghĩa tương đối.
Sau năm 1952, nhờ sự giúp đỡ, chỉ đạo của trên nên bộ thuế tương đối chính xác hơn, các tầng lớp nhân dân phấn khởi, hoàn thành trách nhiệm của mình. Đồng thời chính quyền cũng tập trung giải quyết những đơn thư khiếu kiện như đất bán trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 theo tiền Đông Dương, nay bán hoặc nhượng lại theo tiền mới Ngân hàng quốc gia Việt Nam.
Từ giữa năm 1953, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn quyết liệt, thế chủ động thuộc về ta. Nhiệm vụ chống phong kiến ở vùng tự do đòi hỏi phải được nâng lên phục vụ cho yêu cầu của nhiệm vụ chống đế quốc. Đảng quyết định phát động quần chúng “triệt để giảm tô và thực hiện giảm tức” nhằm động viên bộ đội ở các chiến trường, hạ uy thế về chính trị của giai cấp địa chủ. Đây thực sự là một cuộc đấu tranh giai cấp gay go quyết liệt, giai cấp địa chủ, phú nông có nhiều ruộng không dễ gì một sớm, một chiều mà họ từ bỏ đặc quyền, đặc lợi. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các chi bộ, tổ Đảng Quỳnh Mai đã dựa vào sức mạnh đấu tranh của quần chúng buộc đa số địa chủ, phú nông phải giảm tô, giảm tức cho nông dân. Nhưng trong hàng ngũ cốt cán đứng đầu chính quyền do dự nên Chủ tịch Trần Lưu bị cách chức, bà Nguyễn Thị Danh, Phó Chủ tịch lên thay().
Giảm tô, giảm tức thắng lợi đã cổ vũ động viên khuyến khích kịp thời nông dân hăng hái đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, làm tăng thêm vụ; cổ vũ, động viên các chiến sỹ trên các chiến trường hăng hái thi đua lập công, xung phong, vây đồn diệt viện, tạo khí thế thi đua sôi nổi giữa hậu phương với tiền tuyến.
Tuy vậy, do nhận thức còn đơn giản về đường lối kháng chiến kiến quốc, hơn nữa do tư tưởng chủ quan nóng vội, các cơ sở Đảng. chính quyền đã phạm khuyết điểm: “Việc huy động sức dân cho cuộc kháng chiến đã không tuyên truyền, giáo dục đầy đủ, sâu rộng mục đích ý nghĩa; không xuất phát từ thực tế và đời sống của nhân dân nên đã dùng biện pháp hành chính, mệnh lệnh, gò ép nhân dân đóng góp quá mức, nhất là đối với nhân dân lao động. Vì vậy, có lúc đã gây nên tình trạng căng thẳng ở nông thôn, ảnh hưởng đến chính sách đoàn kết kháng chiến”().
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn cuối, càng trở nên sôi động. Nhiều đợt dân công xã Quỳnh Mai được huy động.
Năm 1951, xã Quỳnh Mai có một đại đội dân công do ông Hồ Sĩ Tiệp (Thiện Kỵ), làm đại đội trưởng. Trung đội làng Thiện Kỵ do ông Trần Cươn làm trung đội trưởng, ông Nguyễn Bá Thái làm trung đội phó đi phục vụ chiến dịch Hà - Nam - Ninh. Tháng 12-1952, xã Quỳnh Mai điều một đại đội dân công, ông Sinh Dũng (Quỳnh Dị) làm đại đội trưởng. Trung đội làng Thiện Kỵ do ông Trần Đức Tiềm làm trung đội trưởng, ông Nguyễn Bá Túa làm trung đội phó đi phục vụ chiến dịch Tây Bắc. Năm 1953, xã Quỳnh Mai huy động một đại đội dân công phục vụ Mường Xén (Lào) do ông Hồ Sĩ Phước (ông Khảm) làm đại đội trưởng. Trung đội làng Thiện Kỵ do ông Nguyễn Bá Thái làm trung đội trưởng... Tất cả dồn sức tập trung, huy động, động viên sức người và của phục vụ cho tiền tuyến. Đội dân công Quỳnh Mai cùng với dân công của huyện Quỳnh Lưu đã không quản ngại đèo cao, vực sâu, cơm vắt, ngủ hầm, mưa dầm, rét buốt để tiếp tế cho các chiến trường bằng các phương tiện gánh bộ, đi thuyền, xe đạp thồ, dựng lên bức tranh tuyệt đẹp về chiến tranh nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Những người con của Thiện Kỵ, dù là vệ quốc quân hay dân công, thanh niên xung phong phục vụ trên các chiến trường mang trong lòng mình ý chí của dân tộc “thà chết, quyết không chịu làm nô lệ”. ở hậu phương, tiếp tục đẩy mạnh tăng gia sản xuất, đóng góp thuế, nghĩa vụ, phát động phong trào tòng quân, phong trào văn nghệ, múa hát, tuồng, cải lương… trong mọi lứa tuổi. Các khẩu hiệu “tất cả để chiến thắng”, “tất cả cho Điện Biện Phủ” được viết và chăng khắp nơi trên các trục đường. Các chòm, chòi phát thanh, thông tin hoạt động hết công suất, tiếng loa bằng giấy, mo cau liên tục loan tin chiến thắng từ các chiến trường biểu dương người tốt việc tốt, sau đó là tiếng hát, tiếng thơ, tiếng reo hò cổ vũ động viên… làm xao động một vùng quê.
Thật cảm động khi các cụ già ở vào cái tuổi “thất thập cổ lai hy” ngồi chẻ tre đan bồ, đan sọt, chuẩn bị gồng gánh; phương tiện vận chuyển bằng đôi vai, xe đạp thồ. Các mẹ, các chị hông xôi, gói bánh, đùm cơm, mắm muối… để dân công ngày mai kịp thời lên đường. Tin chiến thắng từ các chiến trường dội về, lời động viên của chi bộ, chính quyền, đoàn thể đối với những người ra đi làm nhiệm vụ… Thôn xóm những ngày đó, sau luỹ tre làng, dưới dòng sông Mai sao mà ấm êm, đằm thắm. Những gia đình có người thân ra mặt trận: đi bộ đội, Thanh niên xung phong, dân công đi phục vụ chiến đấu, lúc thời vụ, bão tố ở nhà đã có dân làng giúp sức, làm thêm mảnh ruộng mới chia, giúp nhau phên tranh che chắn lúc mùa đông tới, cơn bão đi qua… Những kỷ niệm đó không bao giờ phai nhạt trong ký ức của chi bộ, chính quyền, đoàn thể và nhân dân Quỳnh Mai.
Trong kháng chiến, thành tựu đáng ghi nhận là công tác thông tin tuyên truyền được Đảng, chính quyền quan tâm. Công tác thông tin tuyên truyền trên tất cả các lĩnh vực mang tính thời sự kịp thời để nhân dân biết những chủ trương, chính sách của Đảng và chính phủ. Những chủ trương chính sách đó khi được quần chúng thấu hiểu sẽ trở thành vật chất với quyết tâm cao hoàn thành tất cả mọi công việc. Khi chưa nhập xã, Thiện Kỵ có 4 xóm, mỗi xóm có một nơi để hội họp, học tập xoá nạn mù chữ, học các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước (thường là mượn các địa điểm trung tâm như đình làng, nhà thờ họ, nhà dân). Những nơi trung tâm được dựng một chòi cao khoảng 3-4 mét so với mặt đất, trên chòi có thể ngồi được 2-3 người, thay nhau đọc những bản tin thắng trận từ các chiến trường dội về, tin tức thời sự thế giới, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; xen giữa các chương trình là các tiết mục văn nghệ, chuyên nghiệp, nghiệp dư, tự sáng tác thơ, ca hò vè… cổ vũ cho tòng quân, giúp công, giúp của để đẩy mạnh sản xuất.
Phong trào thi đua ái quốc “Tuần lễ vàng”, “thóc nuôi quân”, “hũ gạo tiết kiệm”, “công trái quốc gia”, “công trái kháng chiến” làm cho người dân tăng thêm nhiệt huyết đối với Tổ quốc. Công tác thông tin tuyên truyền đã góp phần làm cho những Chỉ thị, Nghị quyết, Chủ trương, Chính sách của Đảng, Chính phủ, lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về: “Cứu đói và chống đói” trở thành hành động thiết thực. Người cuốc, người cày đi khai hoang vỡ hoá, các nương nại: dâu, chè, chuối lại xanh tươi, ngô, lạc, đậu, vừng, khoai lang, bầu bí được mọc lên trên các sườn đồi, đất trống. Phong trào diệt giặc dốt thôi thúc mọi người, thông qua công tác tuyên truyền “Đi học là yêu nước”, “Dạy học là yêu nước”, chỉ trong vòng hơn một năm chúng ta đã thanh toán nạn mù chữ, được huyện khen thưởng.
Xây dựng nếp sống văn hoá - xã hội trong kháng chiến.
Cùng với việc xây dựng lực lượng, bảo vệ quê hương, chi viện cho các chiến trường sức người và của đẩy mạnh sản xuất, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ trong thời chiến với phương châm: kháng chiến toàn dân, toàn diện còn được thể hiện trong lĩnh vực văn hoá - xã hội.
Sự nghiệp giáo dục ở Hoàng Mai được cấp uỷ chính quyền và các đoàn thể quan tâm chỉ đạo. Nối tiếp những thành tích đạt được của những năm đầu khi chính quyền mới được thành lập, công tác xoá mù chữ, bình dân học vụ tiếp tục được duy trì dựa trên nền đất hiếu học Thiện Kỵ và do công sức đóng góp của Đảng bộ và nhân dân. Lúc đầu hình thành trường chỉ có hai lớp 5 (tương đương với lớp 6 hiện nay), các lớp phải học tạm hai nơi (nhà thờ họ tộc Nguyễn Bá và đền Bình An), phụ trách trường là thầy Hà Mạch. Trường thu hút con em cả vùng Bắc Quỳnh Lưu, sau một thời gian trường giải thể, con em lại phải vào Quỳnh Bá, Quỳnh Đôi để theo học tiếp. Năm 1949, theo chủ trương chung, trường tiểu học Hoàng Mai chuyển đổi hệ thống các trường phổ thông thống nhất trong toàn quốc. Cấp I (từ lớp 1 đến lớp 4) nay là tiểu học từ lớp 1 đến lớp 5. Cấp II (từ lớp 5 đến lớp 7) nay là trung học cơ sở từ lớp 6 đến lớp 9. Cấp III (từ lớp 8 đến lớp 10) nay là trung học phổ thông. Sau khi chuyển hệ, các lớp vỡ lòng chuyển về các xóm.
Ngày 19/5/1949, Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Nghệ An ra Quyết định công nhận huyện Quỳnh Lưu là một trong 6 huyện trong tỉnh đạt tiêu chuẩn thanh toán nạn mù chữ, xã Quỳnh Mai là một trong những địa phương dẫn đầu.
Theo Chủ trương của Huyện uỷ Quỳnh Lưu là nâng cao trình độ cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ ở cấp cơ sở, bởi vậy cùng với hệ thống trường lớp chính quy, các lớp học bổ túc được mở ra tạo điều kiện cho mọi người đi học theo các cấp, từ cấp I đến cấp II, đội ngũ giáo viên được tăng cường.
Dưới mái trường phổ thông, các phong trào thanh - thiếu nhi đã được tập hợp và hoạt động sôi nổi như phong trào Trần Quốc Toản, các việc làm như sạch làng tốt ruộng, lấy phân xanh phục vụ cho sản xuất nhằm đưa năng suất cây trồng tăng lên; phong trào làm việc giúp ích bộ đội nơi tiền phương. Không những thế, các cháu cùng với các anh, các chị, hát múa các bài hát, điệu nhảy, liên tục mở ra nơi đình làng, trường học, nơi ngã ba, ngã tư đã thu hút các tầng lớp già, trẻ, gái, trai. Các ngày lễ, Tết, ngày kỷ niệm như sinh nhật Bác 19/5, Rằm Trung thu 15/8, liền kề với ngày thành lập nước, lực lượng đoàn viên thanh niên đã tổ chức cho các cháu vui chơi hội trại, kết kiệu hoa để rước chân dung ảnh Bác Hồ, kết đèn ông...
Cuộc vận động bài trừ mê tín dị đoan, xây dựng cuộc sống mới đã đem lại những kết quả đáng khích lệ. Phong trào được tiến hành rộng khắp, được nhân dân đồng tình ủng hộ bằng những việc làm thiết thực. Lễ cưới hỏi được giảm tiện, trong đám cưới chỉ dùng trầu cau, chè nước, cùng nhau chúc mừng hạnh phúc cho lứa đôi. Những đám tang được tổ chức trang nghiêm, giảm thời giờ lúc ở ngoài nghĩa địa, không tổ chức ăn uống linh đình; việc bói toán đồng bóng, cờ bạc từng bước được dẹp bỏ.
Một nét đẹp nổi bật là tình làng, nghĩa xóm, tình dân với Đảng được gắn quyện, lúc tối lửa tắt đèn có nhau; bát cơm, manh áo nhường cho những thầy dạy chữ. Bát cơm, nồi cháo cho những phát thanh viên sau mỗi buổi tối phát tin tức và biết bao những việc làm tương thân, tương ái khác. Những hình ảnh đó còn mãi mãi lắng đọng trong mỗi tâm trí của mỗi một người con trên quê hương.
Công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được cấp uỷ, chính quyền quan tâm chỉ đạo. Ngoài các bài thuốc theo gia truyền, công tác phòng chống dịch đậu mùa được tiến hành liên tục thường xuyên, dịch tả từng bước được đẩy lùi. Năm 1954-1958, Nhà thương được thành lập ở xóm Hào Phú có cán bộ y tế do huyện điều về gồm các bà Nguyễn Thị Quý (ở Huế), y sỹ sản; bà Nguyễn Thị Cầm, Nguyễn Bá Tâm (Quỳnh Thiện). Nhờ đó, dịch bệnh từng bước được khống chế, làm cho nhân dân tin tưởng hơn vào chế độ mới.
Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể trong 9 năm kháng chiến được Đảng và Bác Hồ hết sức quan tâm chỉ đạo, uốn nắn thường xuyên. Đầu năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh có thư gửi các đồng chí Trung bộ. Bác chỉ rõ: “Trong lúc dân tộc đang đứng trước ngã tư đường chết hay sống, mất hay còn, mỗi một đồng chí và toàn thể Đoàn thể() phải đem tất cả tinh thần, lực lượng ra để đưa toàn dân quay về một hướng, nhằm vào mục đích đánh đuổi thực dân Pháp, làm cho nước nhà được thống nhất và độc lập ().
Bác nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải kiên quyết tẩy sạch những khuyết điểm: địa phương chủ nghĩa, óc bè phái, độc đoán, hẹp hòi, ham chuộng hình thức, ích kỷ, kiêu ngạo… Người chỉ rõ: “vẫn biết các đồng chí Trung Bộ nói chung thì có nhiều ưu điểm như nhẫn nại, chịu khó, kiên quyết, tháo vát, nhiều sáng kiến. Đó là những tính rất quý báu, nó làm căn bản cho những tính tốt khác phát triển. Nhưng trong thời kỳ khó khăn nặng nề này, chỉ có những ưu điểm ấy thôi cũng chưa đủ. Các đồng chí cần phải đem căn bản tốt đó mà kiên quyết khắc phục cho những khuyết điểm vừa kể trên thì chúng ta mới chắc đi đến hoàn toàn thắng lợi” ().
Năm 1952 - 1953, Đại hội chi bộ xã Quỳnh Mai đánh giá những kết quả đã làm được, đồng thời chỉ ra những tồn tại, công tác giáo dục chính trị chưa được ăn sâu, bén rễ trong mọi tầng lớp nhân dân. Đại hội chú trọng đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo toàn dân làm công tác quốc phòng, nuôi quân, xây dựng lực lượng dân quân du kích… Đây là công tác quan trọng đối với vùng tự do tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp.
Về xây dựng Đảng, Đại hội đánh giá tinh thần trách nhiệm của các đảng viên trong chi bộ đã bám sát dân, năng nổ nhiệt tình trong nhiệm vụ được phân công. Số lượng đảng viên của chi bộ còn ít, chất lượng chưa cao, cần tập trung bồi dưỡng người ưu tú để kết nạp vào Đảng. Do vậy, đến cuối năm 1949, số lượng Đảng viên của xã Quỳnh Mai có trên 100 đồng chí, riêng Thiện Kỵ đã có 32 đồng chí.
Đại hội đã bầu ra Ban chi uỷ gồm 5 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Tượu (Quỳnh Dị) làm bí thư chi bộ.
Tiếp theo những năm sau, chi bộ tiếp tục học tập “rèn cán chỉnh quân”, lãnh đạo chỉ đạo thuế nông nghiệp, thực hiện giảm tô, giảm tức, đẩy mạnh sản xuất.
Trong 9 năm, chi bộ, chính quyền, các đoàn thể là chỗ dựa cho nhân dân, từng bước thực hiện quyền dân chủ xây dựng chế độ mới. Qua 9 năm kháng chiến, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của tổ chức Đảng, chính quyền, các đoàn thể đã trưởng thành, qua đó đã cho nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích. Quần chúng nhân dân luôn tin tưởng vào Đảng, chính quyền, mặt trận đã có những sáng tạo với nhiều hình thức phong phú để thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người công dân được sống trong chế độ mới.
Chín năm kháng chiến, nhân dân Quỳnh Mai nói chung, Thiện Kỵ nói riêng đã động viên nhân tài, vật lực phục vụ cho cuộc kháng chiến, bảo vệ quê hương, đẩy mạnh sản xuất, làm tròn nghĩa vụ hậu phương đối với tiền tuyến. Thiện Kỵ đã có gần 60 thanh niên lên đường tham gia đoàn quân Nam tiến, tham gia chiến đấu ở các chiến dịch Hà - Nam - Ninh, Thượng Lào, Điên Biên Phủ, tham gia xây dựng lực lượng bộ đội địa phương C120 của huyện (có 4 đồng chí), 22 đồng chí tình nguyện đi thanh niên xung phong, hàng trăm lượt người đi dân công phục vụ trên các chiến trường. Nhân dân Thiện Kỵ đã cung cấp nhiều cán bộ cho các ngành các cấp huyện, tỉnh và Trung ương. Hàng trăm dân quân du kích, chiến sĩ tự vệ, công an ngày đêm túc trực canh gác bảo vệ quê hương, sẵn sàng chiến đấu chống địch liều lĩnh phá hoại hậu phương, bắt gọn toán biệt kích 19 tên trên địa bàn, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, cung cấp đầy đủ mọi nhu cầu khi cần, mồ hôi, máu, thịt của các anh, các chị đã đổ xuống để có:
"Chín năm làm một Điên Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng"
Tổ quốc đã ghi công 9 liệt sĩ, 2 cán bộ cách mạng lão thành, tặng thưởng 102 Huân, Huy chương các loại.
Thắng lợi vẻ vang đó trước hết là nhờ tinh thần chiến đấu hi sinh của các liệt sĩ, thương binh đã không tiếc xương máu để bảo vệ quê hương, đất nước. Chúng ta cũng không quên những anh chị em dân công chân đất, vai đồng với đôi bồ, sọt vận chuyển quân lương vượt suối, băng đèo, xuyên rừng… mang hàng ra tiền tuyến dưới làn mưa bom, lửa đạn và còn đó là lòng nhiệt tình cao của nhân dân đối với nghĩa vụ đất nước.
Thắng lợi đó bắt nguồn từ sự lãnh đạo sáng suốt của chi bộ đã quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng “kháng chiến toàn dân, toàn diện”, “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” và “trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi”; nghiêm chỉnh chấp hành Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, Sắc lệnh của Chính phủ; tuân thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của huyện, tỉnh. Qua từng giai đoạn chuyển biến của cách mạng, đã vận dụng sáng tạo, linh hoạt, cụ thể đường lối chung vào hoàn cảnh thực tế của địa phương, đề ra những chủ trương sát đúng phù hợp với lòng dân; huy động được sự đóng góp tối đa về người và của cho cuộc kháng chiến. Qua thử thách tôi luyện, chi bộ không ngừng lớn mạnh về tư tưởng, tổ chức, giữ nghiêm kỷ luật, đảng viên trưởng thành, đủ sức lãnh đạo chính quyền, xây dựng đoàn thể vững mạnh, phát huy được khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp hoàn toàn thắng lợi, quê hương đất nước bước qua một giai đoạn lịch sử mới.
Chương IV
Đảng bộ, nhân dân xã Quỳnh thiện trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống mỹ cứu nước (1954-1975)
Chín năm trường kỳ kháng chiến gian khổ, ác liệt, chúng ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, buộc thực dân Pháp và bè lũ tay sai cũng như bọn can thiệp Mỹ phải ký Hiệp định Giơnevơ (20/7/1954), hoà bình được lập lại trên bán đảo Đông Dương, chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.
Theo tinh thần cơ bản của Hiệp định, miền Bắc Việt Nam hoàn toàn giải phóng, miền Nam tạm thời dưới quyền kiểm soát của thực dân Pháp. Hai năm sau (1956), nước ta sẽ có cuộc tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội thống nhất. Nhưng đế quốc Mỹ từng bước thế chân thực dân Pháp, ngang nhiên xoá bỏ Hiệp định, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm với dã tâm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ, chia cắt lâu dài và vĩnh viễn đất nước.
Nhiệm vụ của cách mạng nước ta trong giai đoạn được Đảng ta khẳng định:
Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân cơ bản được hoàn thành tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm căn cứ địa cách mạng vững chắc cho cả nước.
Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc.
Cùng với miền Bắc và cả nước, đảng bộ, nhân dân Thiện Kỵ bước vào giai đoạn mới. Những chặng đường đi lên gắn bó chặt chẽ, khăng khít với quá trình xây dựng, phát triển, chiến đấu bảo vệ hậu phương, chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam.
I. ổn định tình hình sau chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
Tháng 4-1954, xã Quỳnh Mai được chia tách thành các xã: Quỳnh Thiện, Quỳnh Vinh, Quỳnh Dị, Quỳnh Trang và Quỳnh Thắng.
Trong 9 năm kháng chiến, Hoàng Mai thuộc vùng tự do, nền kinh tế có khởi sắc, song năng suất cây trồng chưa cao, giống mới chưa được du nhập, các biện pháp kỹ thuật chưa được áp dụng rộng rãi, phong tục tập quán canh tác lạc hậu còn tồn tại, việc tuyên truyền, giác ngộ cho quần chúng nhân dân vẫn còn nhiều vấn đề bất cập.
Ruộng đất bình quân trên khẩu thấp, số ruộng làm được 2 vụ ít, đa phần làm một vụ cho năng suất thấp. Những năm cuối của cuộc kháng chiến, thiên tai liên tiếp diễn ra làm cho mùa màng bị thất bát. Cuối năm 1954, đầu năm 1955, hạn hán diễn ra không riêng gì ở Hoàng Mai mà cả huyện và toàn miền Bắc. Nạn đói tiếp tục diễn ra và có chiều hướng lan rộng. Nhiều hộ đói cơm phải rau cháo, sắn, khoai… cho qua bữa. Cái mặc vẫn còn thiếu thốn, mùa đông tới, nhiều người, già, trẻ nhỏ vẫn co ro trong bộ quần áo mỏng không đủ ấm thân.
Tuy vậy không khí phấn khởi của hoà bình vẫn tràn ngập, xua đi bao nỗi khó khăn. Chính quyền qua cuộc kháng chiến đã trưởng thành ngày càng được củng cố. Chi bộ Đảng ngày càng vững mạnh, các tầng lớp nhân dân đều có tinh thần cách mạng cao, nay được sống trong cảnh hoà bình, càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
1. Xây dựng Đảng, chính quyền, tiến hành khôi phục kinh tế, cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội:
Lúc tách xã Quỳnh Mai, dân số xã Quỳnh Thiện có khoảng 2.000 người, địa hình từ cầu Hoàng Mai ra tới khe Nước Lạnh, hình thành lên 4 xóm lớn: Thịnh Mỹ, Hào Phú, Bình An và Vưu Mỹ. Chi bộ đảng được tách ra từ đảng bộ xã Quỳnh Mai, có 4 chi bộ với 50 đảng viên, trong đó có 13 đảng viên nữ.
Đồng chí Trần Tiềm làm Bí thư chi bộ đầu tiên của chi bộ xã Quỳnh Thiện.
Đồng chí Nguyễn Bá Hưng phụ trách công tác tổ chức.
Uỷ ban hành chính được kiện toàn, thay thế cho uỷ ban hành chính kháng chiến. Đồng chí Trần Tiềm, Bí thư chi bộ kiêm Chủ tịch uỷ ban. Tháng 2-1955, khi đội cải cách về, đồng chí Tiềm nghỉ chủ tịch, đồng chí Nguyễn Duy Khính thay. Bí thư chi bộ do đội cải cách nắm.
Ông Võ Đăng Kịch Phó chủ tịch (tháng 5-7/1954)
Ông Nguyễn Bá Thóng Phó chủ tịch (tháng 8/1954-3/1955)
Hoà bình lập lại, nhưng đời sống của nhân dân xã Quỳnh Thiện vẫn chưa được cải thiện. Tuy có giảm tô 25% nhưng không triệt để, ruộng đất phần lớn vẫn nằm trong tay giai cấp địa chủ, kinh tế nông nghiệp vẫn phụ thuộc thiên nhiên. Tháng 9 năm 1954(), Hoàng Mai bị lụt lớn, mùa màng thất bát, giá gạo tăng, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. Kinh tế chưa được phục hồi, đế quốc Mỹ càng ra sức tìm mọi cách phá hoại Hiệp định Giơnevơ và nhanh chóng thế chân thực dân Pháp. Âm mưu của đế quốc Mỹ là chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam thành pháo đài của Mỹ ở Đông Nam á.
Trong bộn bề công việc, nhưng ruộng đất là vấn đề quan trọng sau khi đã có hoà bình. Xã Quỳnh Thiện đã trải qua cuộc đấu tranh chính trị, đấu tranh giảm tô nên quan hệ giữa địa chủ và nông dân đã thay đổi, địa chủ không còn thế lực. Mặt khác, trong cuộc kháng chiến, nhiều địa chủ đã hăng hái tham gia đóng góp: hiến điền, mua công trái… Do vậy cải cách ruộng đất ở Quỳnh Thiện chủ yếu để khẳng định xoá bỏ giai cấp địa chủ bóc lột và kiện toàn tổ chức theo quan điểm của Đảng.
Tháng 3/1955, ba huyện: Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu được tỉnh chọn làm thí điểm về cải cách ruộng đất. Chi bộ đảng Quỳnh Thiện được kiện toàn, Đại hội đã bầu những người không liên quan với giai cấp địa chủ và cũng không liên quan đến ruộng đất tham gia chi ủy.
Đồng chí: Hoàng Thị Tơn bí thư chi bộ.
Đồng chí: Đậu Phi Hán trực Đảng
Chính quyền được phân công:
Ông Nguyễn Duy Viễn Chủ tịch UBND
Ông Trần Oanh Phó Chủ tịch UBND
Chi bộ Đảng, chính quyền được kiện toàn, nhưng toàn bộ quyền lực thuộc về Đội cải cách do trên cử về. Đội phân công người về cơ sở xóm tiến hành “ba cùng”, “bắt rễ, sâu chuỗi, cùng ăn cùng ở” trong trung nông, bần nông, cố nông để hướng dẫn quần chúng đấu tranh. Họ lập hồ sơ những người có nhiều ruộng. Toàn bộ xã Quỳnh Thiện lúc đó có trên vài chục hộ gia đình được quy là địa chủ, phú nông. Trong số những hộ bị quy địa chủ có người trước đây từng là cán bộ, có công với cuộc kháng chiến.
Cùng với cải cách ruộng đất là việc đóng lương thực cho Nhà nước, còn gọi là đóng “thuế khả năng”, thuế được phân chia những hộ có trong hồ sơ là địa chủ, phú nông. Nội bộ trung nông, bần nông, cố nông được dân bình xét với mức thuế thấp, nhân dân nhận thức thấy được việc đóng thuế là “ích nước, lợi nhà” nên khi được bình quy định mức, họ đóng góp tích cực. Nhiều gia đình trong nhà không còn lương thực, họ phải vay mượn, phải bán đi một số đồ dùng có giá để đóng thuế, đúng thời gian.
Theo hướng dẫn của Đội cải cách với phương châm “có khổ, nói khổ, nông dân vùng lên”, đợt tố khổ được phát động và diễn ra mạnh mẽ trong các xóm. Sau tố khổ là đến quy định thành phần (do trên đưa xuống), việc bình xét trở lên khó khăn, phải làm đi làm lại nhiều lần. Quy định thành phần xong, Toà án đặc biệt được thiết lập và dựng đấu trường, đấu tố, sau đó tuyên án. Đội cải cách tổ chức cho nhân dân vào nhà địa chủ rước “quả thực”.
Cải cách ruộng đất năm 1955 thu được thắng lợi cơ bản, hơn 300 mẫu ruộng được chia cho dân, cùng nhiều tư liệu sản xuất. Phải khẳng định rằng đường lối cải cách ruộng đất là đúng, đây là việc thực hiện Cương lĩnh của Đảng được nêu ra từ năm 1930 là “Độc lập dân tộc, người cày có ruộng”. Thắng lợi của công cuộc cải cách ruộng đất không chỉ là ở chỗ lấy lại ruộng đất, tài sản của địa chủ chia cho dân nghèo, điều cốt yếu là quan hệ sở hữu ruộng đất và tư liệu sản xuất ở nông thôn đã được thay đổi. Người lao động thực sự làm chủ ruộng đất, làm chủ tư liệu sản xuất, giai cấp địa chủ bóc lột mất cơ sở kinh tế, mất quyền sở hữu ruộng đất và tư liệu sản xuất khác, họ trở thành người lao động không bóc lột.
Cải cách ruộng đất là bước chuyển biến về chất trong đời sống chính trị - kinh tế - xã hội ở nông thôn. Đây thực sự là ngày hội lớn của người lao động. Họ thực sự đổi đời, thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Với thắng lợi này, giai cấp bóc lột hoàn toàn bị xoá bỏ. Những gia đình địa chủ chỉ còn lại một phần ruộng đất, họ tự sản xuất và trở thành người lao động thực thụ.
Nhưng nhìn lại, trong quá trình cải cách ruộng đất cũng như tình hình chung của nhiều địa phương ở miền Bắc, Nghệ An, Quỳnh Lưu nói chung, Quỳnh Thiện nói riêng đã mắc nhiều sai lầm đáng tiếc.
Cải cách ruộng đất ở Quỳnh Thiện, cũng như toàn miền Bắc nói chung diễn ra trong bối cảnh miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, quan hệ giữa giai cấp địa chủ và giai cấp nông dân đã có những chuyển biến; giai cấp địa chủ đã mất địa vị chính trị - kinh tế. Trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, Quỳnh Thiện nằm trong vùng tự do, cuộc chiến đã cuốn hút như một cơn bão lớn về chính trị, lôi kéo mọi giai tầng trong xã hội tham gia nhờ chủ chương chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp với lòng dân. Luật thuế nông nghiệp, luật nghĩa vụ quân sự, giảm tô, giảm tức, hạn điền, hiến điền… đã được làm trong kháng chiến. Thực chất của cuộc cải cách ruộng đất là cuộc đấu tranh chính trị quan trọng, xoá bỏ hoàn toàn quan hệ sản xuất phong kiến ở nông thôn; xoá bỏ giai cấp địa chủ với tư cách là giai cấp bóc lột, giải phóng người nông dân lao động để họ trở thành người nông dân tự do, có ruộng đất để sinh sống, đó là nguyện vọng, mơ ước ngàn đời "người cày có ruộng”. Trong bối cảnh đó, không cần nặng về đấu tố, không cần phương pháp nhục hình và cũng không cần áp dụng tỷ lệ "bình quân địa chủ" theo hộ một cách máy móc, nặng về ép cung, đấu tố sai sự thật.
Trong cuộc kháng chiến, Mặt trận Việt Minh đã tập hợp đông đảo quần chúng với chủ trương chiến lược đại đoàn kết toàn dân của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bởi vậy, đa số người trong giai cấp địa chủ đã tham gia đóng góp của cải cho cuộc kháng chiến với nhiều hình thức khác nhau, có người được kết nạp Đảng, được dân tin bầu vào các chức vụ quan trọng từ cơ sở trở lên huyện, tỉnh, Trung ương…
Sai lầm lớn trong vấn đề thực hiện đường lối là nhận thức non kém của những người thực thi công vụ, dẫn đến đốt cả sách chữ Hán, cho đó là tàn dư của chế độ cũ. Trong các loại sách đó có nhiều sách văn học, lịch sử, sách thuốc, gia phả đình làng, họ tộc…, đó là những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của mỗi dòng họ, quê hương, đất nước.
Một biểu hiện nữa là làm cho Đảng, chính quyền và các đoàn thể phần nào bị vô hiệu hoá, bao trùm lên tất cả là “Đội cải cách” vì họ được trên điều về, được giao quyền lực quá lớn “nhất trời, nhì Đội”, được tự lập ra “toà án đặc biệt”, xử người, kết tội không cần thông qua các tổ chức ở cơ sở, thiên về tả khuynh, gây nên tình hình căng thẳng ở làng quê, thôn xóm.
Những sai lầm trở lên phức tạp, khi bọn phản động được Mỹ giúp sức, chúng lợi dụng tình hình đó để gây bạo loạn, lật đổ, kết hợp với dụ dỗ đồng bào, đặc biệt là cưỡng bức đồng bào giáo dân di cư vào Nam, phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc.
Cuối năm 1956, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sai lầm trong việc thực thi đường lối cải cách ruộng đất, kịp thời ban hành Sắc lệnh sửa sai. Thực hiện chủ trương của trên, Đảng, chính quyền, các đoàn thể và nhân xã Quỳnh Thiện cùng với miền Bắc bước vào thời kỳ sửa sai. Các gia đình bị quy sai được bù lại ruộng đất, trả lại tư liệu sản xuất, tiêu dùng. Một số gia đình quy sai có biểu hiện khiếu nại, nhưng do làm tốt công tác tư tưởng, động viên và đối xử đúng mực nên họ nhanh chóng hoà nhập cùng cộng đồng, yên tâm làm ăn, xây dựng cuộc sống. Số cán bộ, đảng viên bị xử lý oan được trả lại đảng tịch, khôi phục lại chức vụ như đồng chí Trần Tiềm… Tình đồng chí, nghĩa đồng bào đã được nối lại, cơn bão tố chính trị đã lướt qua.
2. Củng cố hệ thống chính trị, xây dựng tổ đội công, tiến tới xây dựng hợp tác xã:
Củng cố hệ thống chính trị:
Dưới sự chỉ đạo của huyện, các tổ chức được kiện toàn. Theo hướng dẫn của trên, xã Quỳnh Thiện rà soát lại đội ngũ cán bộ, đưa những người không đủ trình độ, năng lực, phẩm chất ra khỏi bộ máy, bổ sung những người đủ tiêu chuẩn. Học tập và làm theo bài viết "Chi bộ ở nông thôn" của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết ngày 19/2/1957, kêu gọi đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở nông thôn. Hồ Chủ tịch nêu rõ: “Là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam, thì dù xuất thân từ thành phần khác nhau, cũng đều chung một đại gia đình cách mạng, đều chung một mục đích là xây dựng chủ nghĩa xã hội, đều chung một lập trường là lập trường giai cấp công nhân. Cho nên trong chi bộ, không nên có sự phân biệt đồng chí này là trung nông, đồng chí kia là bần cố nông. Bất cứ trung nông hay bần cố nông, đã là đảng viên thì đều chung một lập trường giai cấp, lập trường của Đảng. Tất cả đều phải thực sự đoàn kết, nhất trí, đồng tâm hiệp lực, lãnh đạo nông thôn thi hành cho đúng chính sách của Đảng và Chính phủ.
Chi bộ thật thà, đoàn kết, nhất trí thì lãnh đạo được nông thôn đoàn kết nhất trí. Chi bộ và nông thôn đoàn kết nhất trí thì công việc sửa sai cũng như công việc sản xuất và mọi công việc khác tuy nhiều khó khăn phức tạp, cũng nhất định làm được tốt” ().
Sau đợt học tập thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chi bộ được kiện toàn.
Đồng chí Nguyễn Bá Thóng tiếp tục giữ chức Bí thư chi bộ (tháng 1/1958 đ/c Nguyễn Viết Dữ thay)
Đồng chí Nguyễn Bá Hưng trực Đảng
Chính quyền UBND xã:
Ông Nguyễn Viết Hườu Chủ tịch
Các Phó Chủ tịch: Ông Nguyễn Duy Viễn, Ông Hồ Sỹ Tiệp
Đảng được kiện toàn tăng thêm sức lãnh đạo, công tác phát triển Đảng được chú ý hơn. Hoạt động của chính quyền và các đoàn thể được Đảng lãnh đạo, chỉ đạo sát sao. Trong các đoàn thể, Mặt trận Việt Minh Liên Việt (ngày nay là Mặt trận tổ quốc Việt Nam) được Đảng đầu tư quan tâm chỉ đạo, vì đây là cầu nối, khâu trung gian liên kết trong buổi đầu thành lập tổ đổi công, tiến tới xây dựng hợp tác xã.
Về lĩnh vực phát triển kinh tế: Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh uỷ Nghệ An tháng 4 năm 1957 về củng cố, phát triển tổ đổi công, xây dựng hợp tác xã điển hình, ở Quỳnh Lưu phong trào đổi công được phát triển trước đây nay được nhân ra diện rộng, có nơi đã xây dựng hợp tác xã liên thôn, liên xã. Dưới sự chỉ đạo của huyện, chi bộ đảng đã bàn bạc kỹ và giao trách nhiệm cho tổ chức Nông hội; cùng các đoàn thể vận động bà con nông dân ở các xóm xây dựng tổ đổi công, thành lập các hợp tác xã. Hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng được xây dựng ở trung tâm Quỳnh Thiện từ những năm 1956-1957.
Năm 1957, nạn chuột diễn ra không riêng gì ở Hoàng Mai mà trên toàn huyện. Hưởng ứng phong trào diệt chuột do huyện phát động, dưới sự chỉ đạo của chi bộ, chính quyền và động viên của các tổ chức, vai trò tích cực của tổ trưởng tổ đổi công, phong trào diệt chuột bảo vệ mùa màng diễn ra sôi nổi, chỉ trong một thời gian ngắn đã giải quyết cơ bản nạn chuột.
Mùa mưa năm 1957, thực hiện Chỉ thị của Huyện về việc đắp đê chống lụt, nhân dân Quỳnh Thiện đã huy động hàng ngàn ngày công nạo vét kênh Son, gia cố các đập ngăn mặn La Man, Đá Chiêng. Cũng trong năm này, hưởng ứng phong trào “vì miền Nam ruột thịt”, nhân dân xã Quỳnh Thiện tuy không phải là địa điểm tập kết của bà con miền Nam, nhưng đã chắt chiu hạt gạo, củ khoai, manh chiếu giúp đỡ đồng bào miền Nam
Năm 1958, Huyện uỷ chủ trương tiếp tục tổ chức học tập chủ trương của Trung ương về khôi phục, phát triển tổ đổi công. Chi bộ cùng chính quyền và các đoàn thể đã tiếp tục đi vào từng hộ để giải thích, vận động nhân dân tích cực tham gia, củng cố xây dựng các tổ đổi công. Vụ mùa năm 1958, toàn huyện có 548 tổ đổi công hoạt động có hiệu quả. Từ kết quả đó, Huyện uỷ chủ trương xây dựng hợp tác xã thí điểm trong nông nghiệp. Khâu chỉ đạo đầu tiên mà các cấp uỷ Đảng cần chú ý quan tâm là làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu được chủ trương của Trung ương, của Tỉnh uỷ, Huyện uỷ trong việc hợp tác hoá nông nghiệp với nguyên tắc “tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ”. Nhờ làm tốt việc học tập chủ trương và vận động thuyết phục, hợp tác xã nông nghiệp đầu tiên được hình thành trên vùng đất Quỳnh Thiện.
Xóm Thịnh Mỹ thành lập tổ đổi công tiến tới xây dựng hợp tác xã điểm do ông Đậu Phi Hán làm chủ nhiệm, với hai nhiệm vụ tập trung:
Một là: Vận động nhân dân đẩy mạnh sản xuất và cải tiến kỹ thuật canh tác trong nông nghiệp.
Hai là: Vận động nhân dân vào tổ đổi công để làm quen với tính làm ăn tập thể, tiến tới xây dựng hợp tác xã.
Sau đó, hai hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp ra đời; hợp tác xã may mặc, hợp tác xã rèn, chế tác ra tư liệu sản xuất.
Ngày 24/9/1959, Thông tri số 178 của Huyện uỷ chỉ đạo việc sản xuất vụ mùa, đồng thời nhấn mạnh việc xây dựng tổ đổi công, xây dựng hợp tác xã. Thông tri nêu rõ: “Cần bắt tay vào việc củng cố tổ đổi công và hợp tác xã bằng cách tiếp tục học tập thư Bác, trên cơ sở đó mà tổ chức, củng cố, bảo đảm đẩy mạnh vụ chiêm xuân hiện tại và chuẩn bị cho đông xuân 1959-1960. Đối với các hợp tác xã đang xây dựng thì cần kiểm tra, đôn đốc và nắm vững ba điều kiện, ba bước của việc xây dựng hợp tác xã, chi uỷ phải nắm sát tình hình để lãnh đạo”.
Trong năm 1959, Tỉnh uỷ Nghệ An cử người ra cùng với Huyện uỷ Quỳnh Lưu tăng cường cho cơ sở bám sát tình hình xây dựng hợp tác hoá ở nông thôn. Trong hai năm chỉ đạo tiến hành cuộc vận động xây dựng hợp tác xã, huyện Quỳnh Lưu từ một hợp tác xã thí điểm Quỳnh Diễn đã xây dựng khắp cả 4 vùng, miền có đặc thù khác nhau với 243 hợp tác xã, có 10.567 hộ, chiếm 85% số hộ trong lĩnh vực nông nghiệp vào hợp tác xã. Đến đầu năm 1959, cả huyện có 12% hợp tác xã, huy động 10% tổng số hộ trên toàn huyện xây dựng hợp tác xã quy mô toàn xã như Quỳnh Thạch, Quỳnh Yên. Một số hợp tác xã mang tính chất ngành nghề tiểu thủ công nghiệp như xã Quỳnh Thiện, thị trấn Cầu Giát. Quy mô hợp tác xã được mở rộng, bình quân một hợp tác xã có 43 hộ năm 1959 tăng lên 80 hộ năm 1960. Cuối năm 1960, với tư tưởng chỉ đạo quyết liệt và mang hình thức cưỡng ép nên nhiều hộ gia đình viết đơn xin vào hợp tác xã một cách ồ ạt, vi phạm nguyên tắc tự nguyện. Phong trào xây dựng hợp tác xã còn mang nhiều yếu tố chủ quan, chưa hiểu thấu đáo về cải tạo XHCN, đồng nhất hợp tác hoá với tập thể hoá, chỉ chú trọng nhiều đến việc giải quyết vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất (đóng góp ruộng đất, trâu bò, công cụ sản xuất… làm chung), chưa thực sự chú ý đến công tác quản lý cũng như đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác xã.
Từ năm 1959 đến 1960, sản xuất nông nghiệp diễn ra trong điều kiện thời tiết không bình thường. Năm 1958 nắng hạn 172 ngày liền. Năm 1960, nắng hạn, rồi bão tố gây nhiều tổn thất. Cuối năm 1959, đầu năm 1960, sâu róm phá hoại rừng thông vùng Hoàng Mai rất nghiêm trọng, nếu không kịp thời diệt sâu cứu thông thì hàng ngàn hécta thông có giá trị cao về kinh tế, đồng thời là lá phổi cân bằng sinh thái sẽ bị xâm hại. Huyện uỷ đã có Thông tri số 252 ngày 23/9/1959 cho các xã có thông và huy động giáo viên, học sinh cùng với nhân dân các xã Quỳnh Văn, Quỳnh Xuân, Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim, Quỳnh Vinh, Quỳnh Lập, Quỳnh Dị, Quỳnh Thiện… điều động lực lượng tập trung diệt sâu. Nhờ sự tập trung chỉ đạo của các chi bộ, chính quyền nên rừng thông kịp thời được cứu sống.
Phong trào làm thuỷ lợi, đẩy mạnh khai hoang, phục hoá được tiến hành từ những lúc thành lập tổ đổi công. Năm 1958, huyện huy động cả vùng Hoàng Mai đắp đập Khe Bung lấy nước nên đã có nước tưới cho một số diện tích của xã Quỳnh Thiện qua đập tràn La Man.
Công tác xoá mù chữ tiếp tục được duy trì, trình độ dân trí được nâng lên, đoàn thanh niên làm nòng cốt cho phong trào. Trong lĩnh vực giáo dục, đến năm 1955, trường cấp 2 Quỳnh Thiện được hình thành trở lại nhưng cũng chỉ học tạm trong nhà dân, các đình, chùa. Hiệu trưởng là thầy Lê Duy Mộc (Ninh Bình). Năm 1956-1957, trường phát triển thêm hai lớp 5, hai lớp 6 và một lớp 7, thầy Nguyễn Hữu Tín (quê ở Bắc Ninh) làm hiệu trưởng. Năm 1957-1958, trường chuyển về vị trí trường tiểu học của xóm An Thịnh, thầy Thái (quê ở Bắc Ninh) làm hiệu trưởng, trường có năm lớp (hai lớp 5, hai lớp 6 và một lớp7).
Năm 1959-1960, trường có ba khối (5-6-7), mỗi khối 2 lớp, thầy Đinh Ngọc Sam làm hiệu trưởng, thầy Hồ Trọng Hùng làm thư ký công đoàn. Từ năm học 1960-1965, thầy Nguyễn Đức Nhuận làm hiệu trưởng kiêm bí thư chi bộ. Trường thu hút số đông con em vùng Bắc Quỳnh Lưu.
Cùng với sự nghiệp giáo dục, nhà thương được hoàn thiện, bổ sung thêm trang thiết bị và đội ngũ y tế. Năm 1958 – 1963 nhà thương vẫn ở xóm Hào Phú do ông Khang (Quỳnh Hậu) làm trạm trưởng, bà Châu, bà Phấn (Quỳnh Hậu), ông Nguyễn Duy Tuấn (Quỳnh Thiện)… Phong trào vệ sinh phòng bệnh được cấp uỷ quan tâm, chính quyền chỉ đạo sát sao, các đoàn thể vận động tích cực nên không có dịch bệnh xẩy ra.
Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện trong những năm đầu xây dựng tổ đổi công và hợp tác hoá. Nhiều hộ trước đây thiếu đói phải đi phát rừng, trồng thêm rau màu, sắn, khoai… nay chuyên tâm vào sản xuất.
Tuy vậy phong trào xây dựng cuộc sống mới vẫn còn bộc lộ những tồn tại. Ngày 15/7/1960, Ban chấp hành Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu đã họp và ra Nghị quyết số 21. Nghị quyết nhấn mạnh: “Ra sức củng cố và phát triển tổ đổi công, tích cực xây dựng hợp tác xã, trên cơ sở đó đẩy mạnh sản xuất, cấm giết bê, nấu rượu trái phép. Cần đẩy mạnh công tác văn hoá, giáo dục. Cán bộ huyện gần cơ sở… làm cho người tốt ủng hộ ta, số lừng chừng theo ta, trong phong trào hợp tác hoá, hạn chế bọn phá hoại” ()
Điều khẳng định là từ sau cải cách ruộng đất, tiến tới xây dựng tổ đổi công, xây dựng hợp tác hoá nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xã Quỳnh Thiện thực sự trở thành trung tâm kinh tế sôi động của phía Bắc huyện Quỳnh Lưu. Các cơ quan, xí nghiệp của huyện đóng chân trên địa bàn như hợp tác xã mua bán, cửa hàng lương thực, cửa hàng thực phẩm, trạm thông tin, đồn công an, trường cấp II, nhà thương… làm cho Quỳnh Thiện khởi sắc.
3. Lãnh đạo thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965):
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (từ ngày 5-12/9/1960) Đảng Lao động Việt Nam nêu rõ nhiệm vụ đề ra cho 5 năm lần thứ nhất về phát triển kinh tế - xã hội: “Thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng văn hoá và kỹ thuật, biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp, nông nghiệp hiện đại, văn hoá và kỹ thuật tiên tiến” ().
Năm 1961, chi bộ Đảng Quỳnh Thiện được nâng lên là đảng bộ với 49 đảng viên, trong đó có 13 nữ, sinh hoạt tại 4 chi bộ ở 4 xóm.
Trình độ văn hóa cấp 1: 48 đồng chí, cấp 2: 1 đồng chí. Vào Đảng từ 1946-1949 là 21 đồng chí; 1950-1954 là 12 đ/c; 1956-1957 là 11 đ/c; 1959-1961 là 5 đ/c. Đại hội Đảng bộ được kiện toàn tháng 4 năm 1961.
Đồng chí Nguyễn Bá Vựng làm bí thư Đảng bộ cho đến tháng 3- 1966.
Đồng chí Nguyễn Viết Hườu, chủ tịch UBND xã đến tháng 6-1961; đồng chí Nguyễn Viết Dữ đến tháng 2-1963.
Đồng chí Nguyễn Viết Thực, phó chủ tịch UBND
Nhiệm vụ của đảng bộ được đặt ra trong thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1961-1965 là: phát huy tiềm năng về mọi mặt, đẩy mạnh cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, tập trung lãnh đạo phát triển nông nghiệp toàn diện. Thách thức lớn của đảng bộ trong thời kỳ này là đảm bảo vấn đề lương thực cho nhân dân.
Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu lần thứ VII, lần thứ VIII đều xác định: “Phải đặt trọng tâm vào lãnh đạo phát triển nông nghiệp, phải lấy việc giải quyết đảm bảo lương thực, thực phẩm làm nhiệm vụ cấp bách, cố gắng khắc phục tình trạng thiếu đói”.
Trước hết là xây dựng củng cố hợp tác xã. Trong năm 1960 - 1961, phong trào vào hợp tác xã tiến lên đỉnh điểm, có các hợp tác xã:
Xóm Thịnh Mỹ: chủ nhiệm ông Hoàng Đạt
Xóm Hào Phú, xây dựng 2 hợp tác xã:
Hợp tác xã Phú An: Ông Nguyễn Bá Hùng làm chủ nhiệm
Hợp tác xã Phú Thịnh: Ông Nguyễn Văn Chi làm chủ nhiệm
Xóm Bình An có các hợp tác xã:
Hợp tác xã Tân An: Ông Văn Sỹ Miêng làm chủ nhiệm
Hợp tác xã Trung An: Năm 1960 ông Nguyễn Bá Thái làm chủ nhiệm, năm 1961, ông Đậu Đức Đơ làm chủ nhiệm.
Hợp tác xã Nam Mỹ: Năm 1960 ông Nguyễn Bá Thóng làm chủ nhiệm, năm1961 ông Trần Đăng Thưởng làm chủ nhiệm.
Hợp tác xã Trung Mỹ: Ông Nguyễn Viết Bầu chủ nhiệm
Hợp tác xã Bắc Mỹ: Ông Nguyễn Duy Trường chủ nhiệm
Trong năm 1962-1963
Hợp tác xã Thịnh Mỹ: Ông Đậu Huy Lợc chủ nhiệm
Hợp tác xã An Thịnh: Ông Nguyễn Bá Hùng chủ nhiệm
Hợp tác xã Tân Phong: Ông Phan Đức Lơn, chủ nhiệm
Hợp tác xã Mỹ Phong: Ông Nguyễn Bá Mậu, chủ nhiệm
Trong năm 1964-1965: Sơ tán, di dân phát triển sản xuất, phòng tránh địch đánh phá ( Năm 1964, 13 hộ đi Rú Đất - Thanh Hoá)
1. Thịnh Mỹ:
Hợp tác xã Nông nghiệp, chủ nhiệm: Đậu Huy Lợc
Hợp tác xã Thuần nông, chủ nhiệm: Hoàng Đạt
Di dân tới xã Quỳnh Tam
2. An Thịnh, chủ nhiệm: Nguyễn Bá Hùng
3. Tân Phong, chủ nhiệm: Phan Thanh Đắc
4. Tân Thanh (Thanh Hoá), chủ nhiệm Phan Đức Lơn
5. Mỹ Phong, chủ nhiệm: Nguyễn Bá Mậu
6. Tân Hương (Làng Dọc), chủ nhiệm: Nguyễn Ngọc Cẩn
Mặc dù vậy, quan hệ sản xuất mới bước đầu hoàn thiện, lề lối làm ăn tập thể bước đầu phát huy tác dụng, nhất là việc ứng dụng các biện pháp kỹ thuật vào sản xuất.
Đi đôi với cải tiến công cụ sản xuất, tăng thêm lượng phân bón các loại, cũng như áp dụng những tiến bộ KHKT, tuyển chọn giống mới, gieo trồng tăng năng suất cây trồng.
Phong trào cải tiến công cụ sản xuất, thực hiện “bỏ cày chìa vôi lên ngôi 51”, tiếp đến là sử dụng bừa cỏ Nghệ An do sáng kiến của ông Nguyễn Khảm (Quỳnh Diễn) sáng chế. Bừa có ưu điểm là nhẹ, vừa lợi công, vừa kích thích cây lúa sinh trưởng lại diệt được cỏ. Phong trào làm phân bón cũng được phát triển mạnh, nhân dân khai thác các nguồn phân xanh, lấy phân dơi từ các hang động núi đá vôi… diễn ra sôi nổi, dẫn đầu phong trào là lực lượng thanh niên.
Trong 10 năm (1954-1964), toàn tỉnh rộ lên hai cao trào lớn có tác động đến các đoàn thể nhằm phát triển kinh tế của xã Quỳnh Thiện, đó là “Tiếng trống Xô viết” và chiến dịch “An - Ngãi quật khởi” (). Qua hai cao trào, đã cuốn hút nhiều người tham gia, đẩy mạnh sản xuất và cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nông thôn. Để có đủ lương thực, Huyện ủy chỉ đạo quyết liệt, động viên toàn thể nhân dân làm thuỷ lợi.
Trong năm 1963, năm điển hình về huy động sức dân làm thuỷ lợi trên mọi vùng, miền của huyện, phong trào diễn ra liên tục, tập trung giải quyết cả hai khâu tưới và tiêu, vừa phục vụ trước mắt vừa đáp ứng yêu cầu lâu dài phục vụ cho sản xuất. Đập La Man, Khe Bung đều được bồi trúc, bình quân đầu người trong năm đào đắp được 12,2m3 đất, gấp 1,5 lần năm 1962. Chỉ trong một thời gian ngắn, toàn huyện do công sức của dân đóng góp đã hoàn thành hàng chục công trình mới, tu sửa hàng chục công trình cũ, đào đắp được 20 ao hồ lớn chứa nước, 30 giếng khoan sâu ở vùng Bãi Ngang.
Công trình lớn, mang sức huy động dân đóng góp cao, hoàn thành nhanh là kênh tiêu úng Bình Sơn() được khởi công từ ngày 30/10, đến ngày 16/11/1963 hoàn thành. Kênh từ cống xi phông 17 chảy qua các xã Quỳnh Hoa, Quỳnh Hậu, Quỳnh Hồng, Quỳnh Bá, Quỳnh Hưng, đổ ra Sông Thái. Công trình có chiều dài 8.250 mét, một công trình tiêu úng lớn đầu tiên của huyện với khối lượng đào đắp lên tới 120.000 m3. Huy động nhân công toàn huyện, làm giữa ngày mùa, qua những cánh đồng chiêm trũng ngập bùn, tưởng như không thể làm được, nhưng với sức huy động cao, 16 nghìn dân công chỉ làm 16 ngày. Trong đó Quỳnh Thiện huy động hơn 100 dân quân do đồng chí Nguyễn Bá Vững, Bí thư Đảng bộ trực tiếp chỉ đạo. Công trình được hoàn thành mang lại một dấu ấn trong lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội trên quê hương. Kênh tiêu úng Bình Sơn hoàn thành đã có tác dụng tưới, tiêu cho 1.666 ha của 5 xã, vựa thóc của huyện: Quỳnh Hồng, Quỳnh Hậu, Quỳnh Bá, Quỳnh Ngọc, Quỳnh Hưng và cả một vùng rộng lớn như Quỳnh Đôi, Quỳnh Thanh, Quỳnh Yên… đưa 215 ha hoang hoá vào sản xuất, 550 ha trước đây chỉ làm một vụ nay tăng lên hai vụ, đồng thời tưới tiêu chủ động cho 1.815 ha.
Phát huy thắng lợi đó, Huyện uỷ Quỳnh Lưu quyết định khởi công xây dựng công trình thuỷ nông An Ngãi(). Từ tháng 1/1964, Huyện uỷ cử ra Ban chỉ đạo công trường do đồng chí thường trực Huyện uỷ làm trưởng ban, Chủ tịch UBND huyện làm phó ban thường trực, các đoàn thể và những xã liên quan là những thành viên. Đập An Ngãi còn có tên gọi là khe Ba Tuỳ, thuộc xã Quỳnh Văn (nay là Quỳnh Tân). Công trình được thực hiện: đào đắp 262.000m3 đất, 14.000m3 đá, đổ 260 m3 bê tông. Mỗi ngày huyện huy động 1.500 người.
Xã Quỳnh Thiện thành lập Ban chỉ đạo do đồng chí Phan Đức Duật làm trưởng ban, thường xuyên cắt cử 50 người thay nhau đi làm. Có những lúc công trình bước vào nước rút, mỗi ngày huyện điều động 12.000 người có mặt tại công trường. Con đập có trữ lượng 5.800.000m3 nước, tưới cho 950 ha đồng ruộng bán sơn địa với hệ thống kênh mương kéo dài 29km qua các xã Quỳnh Trang, Quỳnh Hợp, Quỳnh Kim. Công trình còn là một quần thể sinh thái: nuôi cá, làm thuỷ điện nhỏ. Vừa phát huy nội lực lại được sự giúp đỡ của tỉnh, nên lúc đầu dự kiến làm 2 năm, nhưng chỉ sau 9 tháng thi công, công trình đã hoàn thành (tháng 9/1964). Dân cư ba nông trang khai hoang Lê Lợi, 6.1, Đồng Mua, ổn định cho hàng trăm hộ chủ yếu của ba xã Quỳnh Bảng, Quỳnh Văn, Quỳnh Xuân định cư, để đến năm 1971 thành lập lên xã Quỳnh Tân.
Năm 1964, nhân dân xã Quỳnh Thiện đã góp sức cùng cả huyện làm thuỷ lợi đã đào đắp được 2.214.284m3 đất, tăng gần gấp đôi năm 1963, bằng cả 3 năm 1960 -1962.
4. Phong trào di dân đi xây dựng vùng kinh tế mới phía Tây của huyện.
Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ VIII Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu xác định chủ trương đi xây dựng vùng kinh tế mới phía Tây của huyện. Đại hội cũng chỉ ra những thành tích đạt được trong việc xây dựng các nông trang, các hợp tác xã khai hoang vùng Châu - Tam - Thắng, vùng Quỳnh Lâm - Hoàng Mai, đồng thời nêu lên những lệch lạc về nhận thức, cán bộ đảng viên còn chần chừ không chấp hành Nghị quyết. Bởi vì tư tưởng con người Việt Nam nói chung, con người xã Quỳnh Lưu nói riêng, họ gắn bó với nơi chôn rau cắt rốn, quan hệ xóm làng ổn định, dù ở đó là nơi đất chật người đông, cuộc sống lam lũ… Nhưng qua các thế hệ đã gắn bó với hình ảnh “cây đa, giếng nước, sân đình”, mà cha ông đã tạo dựng nên.
Cuộc vận động dời dân đi xây dựng vùng kinh tế đối với vùng Hoàng Mai là nơi gặp nhiều khó khăn nhất. Huyện uỷ đã thành lập đoàn chỉ đạo đi về cơ sở để vận động.
Tháng 3-1963, Đảng bộ Quỳnh Thiện tiến hành Đại hội lần thứ 3. Đại hội bầu Ban chấp hành gồm:
Đồng chí Nguyễn Bá Vựng Bí thư
Đồng chí Mai Xơng Trực Đảng
Đồng chí Phan Đức Duật Chủ tịch
Đồng chí Phan Đức Chuôn Phó chủ tịch
Đại hội kiểm điểm đánh giá phong trào xây dựng hợp tác hoá nông nghiệp, di dân và các chỉ tiêu thực hiện Nghị quyết cấp trên. Với quyết tâm của đảng bộ, cùng toàn thể hệ thống chính trị đã động viên được các hộ đi di dân. Năm 1963 có 13 hộ đi xây dựng quê hương mới ở Rú Đất, năm 1964 có 47 hộ dời dân ra làng Dọc.
Năm 1964 -1965, dân Quỳnh Vinh di dân ra làng Vĩnh Lộc, nay là khối Tân Hùng. Trong các năm, xã Quỳnh Thiện đã vận động gần 100 hộ di dãn dân trong xã và lên các xã Quỳnh Tam, Quỳnh Thắng…
Nhìn lại công cuộc vận động nhân dân di dân theo chủ trương của huyện là đúng. Việc phân bổ lực lượng được đồng đều giữa vùng đồng bằng và miền núi, tăng thêm diện tích canh tác. Do cuộc vận động diễn ra nhanh, nên các đảng bộ, chi bộ cơ sở còn nặng về mệnh lệnh. Sự chuẩn bị cho dân đến nơi khai cơ lập nghiệp chưa thật chu đáo nên xẩy ra nạn phá rừng làm xâm hại đến môi trường sinh thái. Việc quy hoạch vùng chưa rõ ràng, trong lúc đó công tác hỗ trợ kinh phí cho dân ít nên đời sống nhân dân gặp muôn vàn khó khăn, thậm chí có gia đình phải trở về quê.
Nhìn lại chặng đường mười năm từ khi miền Bắc hoàn toàn được giải phóng đến lúc hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, chi bộ (sau này là đảng bộ) có những bước tiến đáng kể. Xã Quỳnh Thiện được hình thành, Đảng bộ, chính quyền được củng cố, các đoàn thể bước đầu thích ứng sự lãnh đạo và chỉ đạo, nhân dân bước vào thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng tổ đổi công, tiến hành hợp tác hoá; phong trào cải tiến công cụ sản xuất, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cải tiến quản lý hợp tác xã… thúc đẩy phong trào làm thuỷ lợi, dời dân khai hoang; đẩy mạnh sự nghiệp văn hoá-xã hội đã từng bước ổn định góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Qua các phong trào đã xuất hiện nhiều nhân tố tích cực, xuất hiện trong thanh niên, phụ nữ và quần chúng nhân dân. Đảng bộ đã bồi dưỡng giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa và đạo đức cách mạng để kết nạp họ vào Đảng, làm tăng sức chiến đấu và lãnh đạo. Sự lớn mạnh về tư tưởng, chính trị, tổ chức, ổn định về đời sống, phát triển về kinh tế là tiền đề cho đảng bộ và nhân dân xã Quỳnh Thiện bước vào cuộc chiến đấu quyết liệt trong sự nghiệp đấu tranh chống Mỹ cứu nước, bảo vệ miền Bắc, chi viện cho miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
II. Đảng bộ, nhân dân xã Quỳnh Thiện trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần cùng cả nước đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược (1965-1975).
Trước nguy cơ “chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, chiến lược "chiến tranh cục bộ” của Mỹ được hình thành. Để tạo cớ, đế quốc Mỹ đã nhiều lần cho máy bay xâm phạm vùng trời, cho tàu chiến do thám vùng biển hoạt động phá hoại cuộc sống yên bình của nhân dân ta. Năm 1963, đế quốc Mỹ và bọn tay sai đã cho máy bay xâm phạm vùng trời huyện Quỳnh Lưu 47 lần, cho tàu chiến quấy rối thuyền đánh cá 17 lần(). Chúng nhiều lần rải truyền đơn, đồ vật chứa chất độc vào địa bàn. Thậm chí chúng đã cho bọn phản động phá hoại tư liệu sản xuất, gây thiệt hại nghiêm trọng cho hợp tác xã đánh cá Quỳnh Long. Nghiêm trọng hơn, chúng dựng lên “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” ngày 5-8-1964, cho máy bay, tàu chiến đánh phá miền Bắc Việt Nam.
1. Vừa sản xuất vừa chiến đấu, chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Đế quốc Mỹ (1964-1968).
Ngày 5-8-1964, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc, đế quốc Mỹ đã sử dụng trong ngày 64 lượt máy bay ném bom Vinh, Cửa Hội (Nghệ An), sông Gianh, đèo Ngang (Quảng Bình), Hòn Gai (Quảng Ninh), Lạch Trường (Thanh Hoá)… Sau đó chúng liên tục cho máy bay, tàu chiến uy hiếp đánh phá nhà ga, cầu cống.
Ngày 5-12-1964, đoàn tàu quân sự chở hàng vào ga Hoàng Mai thì trời đã sáng, để bảo vệ an toàn hàng hoá, lực lượng dân quân xã Quỳnh Thiện cùng với dân quân Quỳnh Vinh được huy động khẩn cấp, nhanh chóng cắt từng toa tàu đẩy ra rú Thông, Mỏ Kẽm cất dấu an toàn. Tại bến phà Hoàng Mai, vào những ngày cuối năm, địch đánh phá liên tục, có những ngày đoàn xe quân sự vào đến phà là trời sáng, xe không thể qua phà được, lực lượng dân quân Quỳnh Thiện phối hợp với lực lượng dân quân Quỳnh Hợp đẩy xe sơ tán cất dấu an toàn. Xã Quỳnh Thiện trở thành khu vực cất dấu, trung chuyển hàng hoá và làm nơi ở cho bộ đội, hơn 70% số nhà của nhân dân dùng để làm kho tàng cất dấu lương thực, vũ khí.
Trước tình hình địch leo thang đánh phá, ngày 21-1-1965 Tỉnh uỷ Nghệ An thông qua đề án: “Tình hình nhiệm vụ chuyển hướng xây dựng kinh tế 2 năm 1965-1967”. Đề án chỉ rõ một số tình huống có thể xẩy ra:
1. Kế hoạch có thể bị xáo trộn, kinh tế bị hỗn loạn bước đầu, đời sống nhân dân, nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến sẽ gặp nhiều khó khăn nếu không sớm chuẩn bị hậu phương.
2. Do đặc điểm địa hình rộng và phức tạp, nên Nghệ An có thể bị địch chia cắt ra thành nhiều vùng, cô lập với các tỉnh. Trong điều kiện bị chia cắt và cô lập, việc xây dựng và phát triển kinh tế sẽ gặp nhiều khó khăn, nhất là sản xuất và bảo đảm đời sống nhân dân.
3. Nghệ An “vừa là tiền tuyến, vừa là hậu phương, phải là nơi cung cấp trực tiếp nhân lực, vật lực cho quốc phòng, nếu không chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế phù hợp thì không thể đáp ứng được nhu cầu cách mạng” ().
Hội nghị lần thứ 12 của Trung ương Đảng họp tháng 12 năm 1965 chỉ rõ: “nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước hiện nay rõ ràng là nhiệm vụ thiêng liêng của dân tộc ta từ Nam chí Bắc”. Hội nghị đề ra khẩu hiệu hành động “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Quán triệt Nghị quyết của tỉnh và Trung ương, Huyện ủy Quỳnh Lưu đề ra nhiệm vụ:
"1. Tổ chức chiến đấu, cũng như phòng tránh máy bay địch ném bom, bắn phá nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, đồng thời bảo vệ sản xuất.
2. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nông nghiệp, nhất là các công trình thuỷ lợi, đồng thời đẩy mạnh thâm canh.
3. Xúc tiến việc điều chỉnh sức lao động giữa các vùng trong huyện, ra sức nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp" ().
Khâu then chốt là hướng tới xây dựng hậu phương vững mạnh, bảo đảm cuộc sống cho nhân dân, vừa chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho yêu cầu lâu dài xây dựng chủ nghĩa xã hội đồng thời sẵn sàng chi viện sức người, sức của ngày càng nhiều cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Đảng bộ Quỳnh Thiện đã quán triệt các Nghị quyết, Chỉ thị của trên, dựa vào điều kiện thực tiễn của địa phương. Để thống nhất ý chí hành động, được sự đồng ý của huyện, Đảng bộ đã tiến hành Đại hội lần thứ IV (tháng 5-1965). Đại hội tập trung bàn những vấn đề trong lúc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ngày càng ác liệt, phải chuyển nhanh sự chỉ đạo, lãnh đạo của đảng bộ sang thời chiến: đẩy mạnh sản xuất, đưa tiến bộ khoa học vào nông nghiệp. Tập trung làm thuỷ lợi trên quê hương, huy động nhân lực đi làm các công trình của huyện của tỉnh. Tiếp tục vận động nhân dân di dãn dân khai hoang. Công tác phòng chống máy bay, làm đủ hầm hào để bảo đảm tính mạng, tài sản cho nhân dân; xây dựng lực lượng dân quân du kích, thành lập trung đội trực chiến sẵn sàng đánh trả máy bay địch; tiếp tục chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam.
Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành và phân công:
Đồng chí Nguyễn Bá Vựng tiếp tục giữ chức Bí thư
Đồng chí Nguyễn Viết Ngoan, trực Đảng
Đồng chí Mai Xơng, Chủ tịch UBND
Đồng chí Nguyễn Bá Lạng, phó chủ tịch UBND ().
Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đã đề ra, với quyết tâm cao, toàn Đảng, toàn dân Quỳnh Thiện bước vào cuộc kháng chiến, chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Trên địa bàn của Quỳnh Thiện, những điểm cao, những chỗ hiểm yếu đều bố trí các đài, trạm quan sát, bố trí trận địa như: Giếng Mới, Núi Đất, Mỏ Kẽm… trung đội trực chiến 30 người, khi cần tăng cường thêm, ngày đêm trực chiến 24/24 giờ, sẵn sàng phối kết hợp với bộ đội đóng trên địa bàn giáng trả kẻ thù.
Vấn đề được đảng bộ và chính quyền quan tâm chỉ đạo là làm thế nào để bảo đảm tính mạng, tài sản của nhân dân. Thực hiện chủ trương của Huyện uỷ Quỳnh Lưu phát động "Bảy ngày không ngủ, lo đủ hầm hào", đảng bộ và nhân dân Quỳnh Thiện hưởng ứng sôi nổi. Hàng vạn ngày công, hàng trăn mét khối gỗ được huy động cho việc làm hầm, hào. Từ nhà ra ngõ, đến đồng ruộng, trên dọc đường quốc lộ cứ 100 mét có hai hầm chữ O, 200 mét có hai hầm Triều Tiên. Trong suốt chiến dịch, nhà nhà đều có hầm, xóm này sang xóm khác có hào, hầm hào đạt chất lượng và có tính bền vững.
Tổ chức lực lượng, vừa sản xuất vừa chiến đấu:
Trước tình hình khẩn trương của chiến tranh, năm1965, để bảo đảm an toàn cho nhân dân, vừa sản xuất vừa chiến đấu, nhân dân Làng Dọc được sơ tán lên Vũng Vị, Mu Cua (Thanh Hoá) nhân dân Làng cũ được sơ tán lên Đồng Sen, Mu Cua. Thời kỳ này, lực lượng dân quân Quỳnh Thiện được tổ chức chặt chẽ, có một trung đội trực chiến 30 người, đóng ở các địa điểm giếng Mới, Mỏ Kẽm và cơ động khi cần đi bảo vệ cầu Hoàng Mai, kênh Nhà Lê, cầu Khe Son… và cả ngoài địa phương, do đồng chí Nguyễn Duy úc xã đội phó chỉ huy, cùng tổ trực chiến gồm Nguyễn Bá Doãn, Nguyễn Đình Tịch, Phan Đức Mãn…
Trung đội có nhiệm vụ khi nghe tiếng máy bay, báo động để dân xuống hầm ẩn nấp và lúc máy bay đi báo yên để dân lên. Ban đêm túc trực báo đèn xanh cho xe chạy, báo đèn đỏ cho xe ẩn nấp. Theo dõi các vụ ném bom và ném bao nhiêu quả để báo về trung tâm chỉ huy. Túc trực 24/24h để bắn máy bay.
Trung đội được trang bị hai khẩu đại liên Cơ-lô-nôv của Liên Xô, 1 trung liên Pơlinô; sau này được trang bị súng 12,7 ly và nhiều súng trường CKC, K44…
Ngày 7-2-1965, đế quốc Mỹ tăng cường leo thang đánh phá miền Bắc. Ngày 17-2-1965, chúng cho ba tàu chiến thuộc Hạm đội 7 bắn một giờ liên tục vào Quỳnh Lập, mở đầu cho trận pháo kích đầu tiên của đế quốc Mỹ vào đất liền miền Bắc. Suốt cả năm 1965, cường độ ném bom đánh phá của đế quốc Mỹ vào Quỳnh Lưu càng mạnh hơn.
Ngày 9-4-1965, đế quốc Mỹ leo một nấc thang mới. Trên địa bàn tỉnh Nghệ An, đặc biệt là Quỳnh Lưu, chúng đã huy động hàng trăm lần chiếc máy bay đồng loạt đánh phá các hệ thống cầu, cống lớn trên các tuyến quốc lộ 1A, đường sắt, đường thuỷ. Trong ngày, chúng đã dội xuống khu vực Hoàng Mai 185 quả bom, chủ yếu là cầu, phà Hoàng Mai. Dân quân du kích phối hợp nhịp nhàng với bộ đội pháo cao xạ bán rơi hai máy bay Mỹ. Một bộ phận dân quân du kích kết hợp với dân quân Quỳnh Vinh đã lăn xả trước mưa bom, bão đạn của kẻ thù để cứu tàu, cứu hàng. Họ đã giành giật với kẻ thù từng bao lương thực, hòm đạn… đưa ra khỏi khu vực đang bị máy bay Mỹ tấn công.
Tháng 5-1965, đế quốc Mỹ đẩy cao mức độ leo thang đánh phá, trọng điểm là Quân khu IV, cán xoong Nghệ An; vùng chốt là Nam Thanh - Bắc Nghệ. Trong thời gian này, vùng trời Quỳnh Lưu suốt ngày ầm ĩ tiếng máy bay gào thét, tiếng đại bác nổ chát chúa. Càng gần đến ngày sinh nhật Bác, chúng càng tăng cường đánh phá mạnh hơn. Lực lượng dân quân du kích cùng với bộ đội liên tục trực chiến 24/24h, chiến đấu đánh trả kẻ thù.
Ngày 15-5-1965, một tốp máy bay F4 của Mỹ dò vào do thám, trinh sát các mục tiêu vùng Bắc Quỳnh Lưu để chuẩn bị cho đợt oanh kích trong ngày. Nhờ cảnh giác cao, dân quân du kích cùng bộ đội phát hiện một tốp máy bay địch bay theo hướng Đông - Tây dọc ven dãy núi Xước vào khu vực Hoàng Mai. Dân quân du kích xã Quỳnh Trang chốt tại Rú Vần gần cầu sắt Hoàng Mai do Lê Xuân Sách chỉ huy đã bám sát mục tiêu. Đúng tầm, đồng chí ra lệnh nổ súng, với 6 viên đạn súng trường đã quật tan xác chiếc máy bay đi đầu chỉ huy. Bị đánh bất ngờ, mất chỉ huy, tốp máy bay này vội chuồn ra biển, bỏ cả mục tiêu quan sát.
Chiến công bắn rơi máy bay Mỹ bằng súng bộ binh đầu tiên của dân quân Quỳnh Trang là nguồn cổ vũ động viên và khẳng định súng bộ binh cũng tiêu diệt được máy bay siêu âm của đế quốc Mỹ; chấn chỉnh được tư tưởng sợ Mỹ, không dám đánh Mỹ, góp phần đập tan luận điệu “không lực Hoa Kỳ là bất khả đụng đến”, “dưới tầm bom đạn Mỹ, Bắc Việt Nam không thể chịu nổi vài tuần” và “đưa miền Bắc Việt Nam về thời kỳ đồ đá”.
Ngày 24/8/1965, khoảng 1 giờ chiều, một tốp máy bay F4 trinh sát phà Hoàng Mai. Thi đua với Quỳnh Trang, bộ đội phòng không C210 đóng ở Quỳnh Lộc đã cảnh giác cao bắn cháy một máy bay, tên phi công nhảy dù rơi vào vùng Đập Bàn, cách thung Trầm Hàu khoảng 50 m. Dân quân du kích và nhân dân hai xã Quỳnh Thiện, Quỳnh Dị đã vây bắt phi công. Các ông Hồ Sỹ Hộ, Hồ Sỹ Biền (Quỳnh Dị) phát hiện ra dấu vết tên phi công đã leo lên đỉnh lèn Yên Ngựa. Ông Hồ Sỹ Hộ đã cảnh giới, ông Hồ Sỹ Biền theo dõi; cùng lúc đó anh Nguyễn Bá Vận đã lao vào bắt tên phi công, ông Mai Văn Nuôi, Nguyễn Bá Tục (Quỳnh Thiện) hỗ trợ, tên phi công bị bắt, sau đó giao cho cấp trên an toàn.
Trên đồng ruộng, làng xóm của xã thời kỳ này liên tục bị máy bay ném bom và pháo kích. Tháng 4-1965, ông Trần Văn Hoạt đang sản xuất bị bom Mỹ giết hại. Ngày 24-5-1965, địch ném bom xuống Ba Cồn, đồng Càn giết chết ông Trần Bống. Ngày 24-7-1965, bom ném vào nhà làm các ông Nguyễn Bá Kiền, Nguyễn Bá Lênh, Lê Công ới bị chết, Lê Công Lai bị thương. Đêm 24-7-1965, do mục tiêu (xe pháo) ở ngã ba phà Hoàng Mai bị lộ, địch dùng máy bay ném bom từ xóm Tân Phong đến xóm An Thịnh, bom trúng vào nhà ông Văn Sĩ Khoát làm chết 9 người (mẹ và mẹ vợ, vợ và 4 con, hai mẹ con chị Thanh, Giang qua trú ẩn cũng bị chết, ông Khoát đi làm nhiệm vụ nên thoát nạn). Tính trong năm 1965, địch đánh vào địa bàn xã hàng trăm trận, bom rơi vào nhà dân 6 vụ.
Đế quốc Mỹ đẩy mạnh quy mô đánh phá hơn vào các tháng 10, tháng 11 năm 1965. Trong những ngày tháng năm đó, chúng ném bom, pháo kích, dùng rốc két tên lửa có ngày 20 lần vào khu vực Hoàng Mai.
Trong Nhật ký Đỗ Lương Bằng(), có đoạn viết: “Ngày 18-10-1965, nhiều tốp máy bay, bay qua gồm các loại A4D, F4H, F8D nhưng chúng không oanh tạc. Ngày 19-10-1965, đúng 5 giờ 10 phút chiều, có 2 chiếc máy bay phản lực A4D xuất hiện, lần thứ nhất bay qua ở cự ly gần 2000m, đơn vị không nổ súng, lần thứ 2 máy bay quay trở lại cự ly gần 3.500m, đơn vị được lệnh nổ súng. Chiếc đi đầu có khả năng bị sát thương, chiếc thứ 2, sau khi tiếng súng ngừng nổ thì có tiếng reo: cháy, cháy rồi…, cháy thật rồi, máy bay bị trúng đạn cháy to, lửa đỏ cả một góc trời, rơi ngay, cách trận địa khoảng 1.500m… tên phi công không kịp nhảy dù bị tan xác, cùng với máy bay().
Ngày 20-10-1965, thời tiết xấu, bọn A4D và F8H chúng mò vào sớm, lùng sục tìm xác máy bay hôm qua nhưng chúng tìm đâu cho thấy.
Ngày 21-10-1965, đúng 8 giờ sáng, 2 máy bay phản lực, 1chiếc A3J và 1 chiếc F4H từ hướng 34 (hướng Đông Bắc) lao thẳng vào trận địa, đơn vị nổ súng dòn dã bắn chiếc A3J đạn tiêu thụ hết 85 viên… đến 17 giờ 20 phút lại 1 chiếc A4D lao vào trinh sát khu vực cầu, ga, trận địa… đơn vị không nổ súng… ngày mai ở khu vực ga, cầu Hoàng Mai sẽ xẩy ra một trận chiến ác liệt hơn nhiều.
Ngày 22-10-1965, một ngày chiến đấu liên tục và ác liệt chưa từng có… 6 giờ kém 15 phút, 8 máy bay phản lực và 6 A4D lao thẳng vào trận địa, đơn vị kịp thời nổ súng, hiệu quả kích xạ tốt, chiếc đi đầu bị bắn cháy ngay. Bọn còn lại vội vàng rút chạy, nhưng chỉ 10 phút sau chúng củng cố đội hình và tấn công vào trận địa… Chúng bổ nhào và liên tục cắt bom, phóng rốc két vào cầu và trận địa… bị ta bắn trả chúng bị cháy 2 chiếc nữa (1-F4H và 1-A4D). Bị đánh đau, chúng tìm cách trả thù. 9 giờ 10 phút 2 máy bay A4A và A4D lao vào, chiếc A6A bay là là, cắt một loạt bom 18 quả xuống cầu. Thật chưa từng thấy trận oanh kích nào ghê gớm như vậy. Lần đầu tiên đơn vị chạm trán với A6A, chưa có kinh nghiệm nên không bắn rơi... Đến 11 giờ 30 phút, lại 7 chiếc A4D vào tấn công, trận này thật ác liệt vô cùng. Máy bay bổ nhào 4 phía vào trận địa… khói bom mù mịt như kín cả bầu trời… chúng bay thấp dưới tầm hoả lực của ta, đạn pháo gần hết nên chúng ta chỉ bắn điểm xạ ngắn, khi chúng bổ nhào vào trận địa… Trận thứ 4 trong ngày trôi qua… Đơn vị đang chuẩn bị cơ động ra bảo vệ cầu Hoàng Mai ban đêm thì lúc 3 giờ 20 phút chiều cùng ngày, 4 chiếc máy bay A4D lao vào cắt bom xuống khu vực ga, cầu Hoàng Mai… Hoả lực của ta bắn lên, có những chùm đạn rất tốt. Nhưng tiếc thay, đạn quá ít chưa đủ để tiêu diệt mục tiêu, kết thúc trận đánh lần thứ 5 trong ngày.
Thật là cảm động, ngay sau khi tiếng súng ngừng nổ các đoàn đại biểu của huyện và các đồng chí lãnh đạo ở vùng Hoàng Mai đã đến thăm hỏi, động viên các chiến sỹ… Sự có mặt của các đại biểu là nguồn cổ vũ, động viên tăng thêm tinh thần chiến đấu cho anh em, thế mới biết tình quân dân là thế đó.
Ngày 18-11-1965, sáng 7 giờ 15 phút 2 chiếc A4D bổ nhào, cắt bom vào ga, đơn vị nổ súng bắn cả 2 chiếc, cùng phối hợp tham gia chiến đấu có C2 pháo 37 ly và các lực lượng súng 12.7ly của dân quân Quỳnh Thiện, Quỳnh Vinh. Hoả lực của ta tương đối mạnh thế nhưng chẳng có kết quả gì. Chưa đầy 1 giờ sau, bọn chúng lại kéo vào, lần này số lượng đông hơn, 2 chiếc F8 và 4 chiếc A4 chúng bổ nhào liên tục bắn phá các chân hàng Hoàng Mai, mỗi chiếc lúc 2 quả, lúc 4 quả thi nhau ném xuống, bom nổ (bom hơi) tạo thành những cột khói dựng đứng… làm mục tiêu cho chúng đánh phá, pháo ta vẫn nổ… máy bay địch thay nhau bổ nhào… Các chiến sỹ ta chỉ bắn được khi chúng ngóc đầu lên… Cả ngày tiêu thụ gần hết 500 viên đạn… Tưởng rằng ngày chiến đấu hôm nay đã kết thúc, nào ngờ 2 chiếc A4D lại lao vào đánh ngay vào trận địa, chiếc đi đầu cắt 1 quả bom cách hầm pháo tiểu đội 3 khoảng 10 mét, 2 chiến sỹ hi sinh, 3 chiến sỹ bị thương" ().
Đến tháng 12-1965, theo đề nghị thiện chí của Chính phủ ta, nhân dịp lễ Nôen và Tết dương lịch, địch đã chấp nhận ngừng ném bom 37 ngày.
Ngày 31-1-1966, Tổng thống Mỹ Giônxơn tiếp tục ra lệnh cho không quân, hải quân tiếp tục đánh phá miền Bắc Việt Nam. Cùng lúc, Mỹ đưa 27 vạn lính Mỹ và chư hầu vào miền Nam để thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ” thay thế cho chiến lược "chiến tranh đặc biệt” đã bị phá sản.
Tình hình đó đặt ra nhiệm vụ nặng nề cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải có quyết tâm cao để đánh thắng Mỹ. Trung ương Đảng chỉ rõ: “Ra sức hạn chế cuộc chiến tranh của địch, giành thắng lợi quyết định ở miền Nam”.
Ngày 3-2-1966, kỷ niệm 36 năm thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, quân dân vùng Hoàng Mai càng cảnh giác cao hơn. Vào lúc 13 giờ 15 phút, một tốp máy bay A3J và F4H từ biển men dọc theo dãy núi Xước, qua khu vực khe Nước Lạnh bay vào trinh sát, do thám vùng Hoàng Mai. Các đơn vị cao xạ pháo C214, tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 341 phối hợp cùng lực lượng dân quân trực chiến Quỳnh Thiện nổ súng diệt ngay một máy bay A3J. Mặc dù tên phi công Mỹ cố lái nhoài ra biển, nhưng tới địa phận xã Quỳnh Liên, máy bay nổ tung thành ba mảnh. Hai tên phi công tung dù cố lái để xa đất liền hơn. Chúng rơi xuống biển nơi địa phận xã Quỳnh Bảng, cách bờ khoảng 1.000-1.500 mét. Dân quân Quỳnh Bảng, Quỳnh Liên phối hợp với bộ đội bắt giặc lái. Sau hơn 4 giờ quần nhau với máy bay Mỹ đến cứu đồng đội, dân quân Quỳnh Bảng đã tóm gọn 2 tên giặc lái giữa biển khơi, mở đầu cho việc bắt giặc lái trên biển của toàn miền Bắc.
Sau ngày 3-2-1966, địch giảm lượng đánh phá trong ngày nhưng lại tập trung đánh đi, đánh lại nhiều lần vào các ga, cầu, phà Hoàng Mai. Có ngày, địch sử dụng lai rai từ 160-164 lần/chiếc. Cao điểm là các ngày từ 14 đến 18-6-1966, chúng tập trung đánh phá dứt điểm các mục tiêu ở Hoàng Mai, có ngày lên tới 20 trận, tập trung vào khe Nước Lạnh, kênh Nhà Lê, cầu, nhà ga, phà Hoàng Mai.
Tháng 3-1966, Đảng bộ xã Quỳnh Thiện tiến hành Đại hội lần thứ V, quán triệt ba khâu then chốt mà Đảng bộ huyện đã đề ra trong giai đoạn vừa sản xuất vừa chiến đấu, phục vụ chiến đấu và tiếp tục chi viện cho cách mạng miền Nam:
1. Tổ chức chiến đấu cũng như tránh máy bay địch ném bom bắn phá nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, đồng thời bảo vệ sản xuất.
2. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nông nghiệp, nhất là các công trình thuỷ lợi, đồng thời đẩy mạnh thâm canh.
3. Xúc tiến việc điều chỉnh sức lao động giữa các vùng trong huyện, ra sức nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp.
Những khâu then chốt đó đều hướng tới xây dựng hậu phương vững mạnh đảm bảo cuộc sống cho nhân dân, vừa chuẩn bị những điều kiện cần thiết lâu dài cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đồng thời sẵn sàng chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam.
Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ và phân công:
Đồng chí Mai Xơng tiếp tục giữ chức Bí thư, Chủ tịch UBND xã.
Đồng chí Nguyễn Bá Lạng, Phó chủ tịch UBND xã đến tháng 11-1966. Đồng chí Nguyễn Hồng Tởn từ tháng 12-1966.
Sau khi ổn định tổ chức, đảng bộ bắt tay ngay vào việc chỉ đạo sản xuất, phòng tránh đánh địch, tiếp tục chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam.
Liên tục từ ngày 25-5 đến ngày 12-6-1966, địch đánh phá các chân hàng ở Hoàng Mai. Trong những trận đánh phá đó, có 13 trận chúng dùng 38 quả tên lửa Bum Pơh (vũ khí mới) đánh phá vào các tuyến đường bộ, đường sắt, đường thuỷ. Cho đến hết cuối năm 1966, địch càng đánh phá ác liệt hơn, những vùng trọng điểm như cầu, phà, nhà ga, khe Nước Lạnh cũng bị chà đi xát lại.
Năm 1966, ngoài việc đánh phá trong khu vực cầu, phà, nhà ga, trận địa, địch cũng tập trung đánh phá vào đồng ruộng, nhà ở của dân. Ngày 5-1-1966, bom Mỹ ném vào khu vực kho lương thực của huyện đóng ở Cổ Bù, bà Bình, bà Mẫn bị chết. Ngày 6-2-1966, bom địch đánh vào nơi sơ tán khe Vặn Xa làm chết các bà: Nguyễn Thị Huyến (Lam), Nguyễn Thị Thuỷ, Nguyễn Thị Chuông (Ân). Đêm 14-2-1966, 200 thanh niên, dân quân đi đắp đê cầu Thơm sát cạnh đường tàu, đến khoảng 11 giờ đêm bị địch ném bom vào rú Mổi nhưng không ai bị chết, chỉ có anh Nguyễn Văn Bình bị thương.
Ngày 8-4-1966, bom đánh vào xóm Bắc Mỹ làm gia đình ông Nguyễn Công Lạng chết 2 người, gia đình ông nguyễn Duy Bơng chết 3 người, anh Lập con nuôi ông Phơn, bà Điểm Ươu và cùng nhiều người khác bị thiệt mạng.
Ngày 14-4-1966, địch ném bom vào rú Đất (Tân Hương) làm 8 con bò chết, cháu Phan Đức Lành, Phan Đức Tựa, Phạm Huấn bị thương.
Ngày 23-4-1966 địch ném bom vào Chọc Vọc, nơi sơ tán của trường học, gia đình ông Nguyễn Bá Mãn bị bom làm 3 con của ông bị chết.
Ngày 25-4-1966, máy bay Mỹ ném bom xuống vùng dân sơ tán Hốc Bộc làm 2 người chết.
Ngày 28-4-1966, địch ném bom xuống đồng ruộng, bà Nguyễn Thị Hữu bị thiệt mạng. Cùng ngày, Mỹ đánh phá ác liệt vào Mỏ đá Hoàng Mai, công nhân phải sơ tán lên lèn cao Eo Kin (nay gọi là hang Hoả Tiễn). Vào lúc 11giờ, máy bay phóng hoả tiễn vào hang làm chết 32 công nhân. Ngày 16-6-1966, bom địch ném vào trường học sơ tán Chọc Vọc, gia đình ông Nguyễn Duy Đăng chết 2 con, gia đình ông Đậu Nhự chết 2 con, thầy giáo Phạm Đăng Đàn bị thương. Ngày 6–10–1966, dân quân tổ chức đi đào công sự bị địch ném bom, ông Nguyễn Viết Việng hy sinh.
Bước sang năm 1967, địch tăng cường đánh phá mạnh hơn, 6 tháng đầu năm địch đánh vào địa bàn trên 300 trận.
Ngày 15-6-1967, lực lượng dân quân xã Quỳnh Thiện phối hợp với bộ đội pháo cao xạ, với 15 viên đạn đại liên, dưới sự chỉ huy của đồng chí Nguyễn Duy úc đã quật tan xác một máy bay F4, được Chính phủ tặng Huân chương Chiến công hạng Ba. Tên giặc lái nhảy dù rơi xuống đồng Khô thuộc làng Yên Phú (Mai Hùng), bị lực lượng dân quân du kích vùng Hoàng Mai tóm gọn.
Ngày 27-7-1967, trong lúc làm nhiệm vụ nạo vét kênh Nhà Lê, bị địch đánh vào hiện trường, dân quân Nguyễn Thị Bưởi bị hy sinh.
Ngày 27-12-1967, nhân dân đi làm ở đồng Cống Su bị bom Mỹ đánh, bà Nguyễn Thị Hoãn bị chết, bà Nguyễn Thị Nhợc bị thương.
Ngày 6-2-1968, nhân dân đi làm ở đồng Lèn Cụt bị bom Mỹ đánh, bà Nguyễn Thị Thoan và bà Hưng Kiệm bị chết.
Cùng với việc chiến đấu và phục vụ chiến đấu, Đảng bộ, nhân dân xã Quỳnh Thiện, dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ vẫn tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, trọng tâm là làm thuỷ lợi vừa và nhỏ. Phát huy sức mạnh tổng hợp của thời kỳ trước chiến tranh, cùng với nhân dân cả vùng Hoàng Mai, xã khởi công xây dựng đập 22-12. Đập được khởi công tháng 4 -1965, chỉ trong một thời gian ngắn đã hoàn thành; có trữ lượng 270.000m3, lưu vực 180ha, khối lượng dào đắp 14.862 m3, đá xây kè 332 m3, đào một con kênh dài 1 km, tưới được 30ha.
Tiếp đến, đắp đập khe Dâu: khởi công tháng 6 - 1965, hoàn thành tháng 12-1965, có lưu vực 115 ha, trữ lượng nước 300.000 m3, khối lượng đất đào đắp 29.000 m3, đá xây kè 150 m3 và đào mương dẫn nước tưới cho 40ha.
Kênh Bình Sơn 2 (Cống Nan), khởi công tháng 6-1967, hoàn thành tháng 8-1968. Công trình được thi công trong điều kiện địch đánh phá ác liệt. Cùng với việc đảm bảo giao thông, trực chiến, Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Thiện dốc sức hoàn thành công trình sau một năm thi công. Kênh Bình Sơn 2 có khối lượng đào đắp gần 30.000 m3đất, đổ bê tông 32,5 m3, đập có lưu vực rộng 420 ha, lượng nước 270.000 m3, đảm bảo tưới tiêu cho 88 ha đồng ruộng.
Chưa có thời kỳ nào, kể cả thời bình, phong trào làm thuỷ lợi ở Quỳnh Thiện và cả vùng Hoàng Mai được dấy lên mạnh mẽ như thời kỳ những năm 1965-1968. Vấn đề thuỷ lợi luôn được Đảng bộ và nhân dân quan tâm, không những trong chiến tranh mà ngay cả ngày nay, mong muốn là làm sao đủ nước để sinh hoạt, sản xuất.
Trong lĩnh vực sản xuất, vấn đề áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, làm tăng năng suất cây trồng cũng được đảng bộ quan tâm lãnh đạo. Chiến tranh vẫn kéo dài, các biện pháp áp dụng vào lĩnh vực nông nghiệp càng được chú trọng hơn. Trước đây chỉ cày một lượt, nay tăng lên hai lượt. Từ năm 1965, áp dụng cấy chăng dây thẳng hàng, thay giống cũ bằng giống mới có năng suất cao. Giống được xử lý, đất mạ được khoanh vùng, lượng phân bón được tăng lên 7 tấn/ha. Lượng bèo thả những nơi chân ruộng có nước. Bởi vậy năng suất lúa tăng lên rõ rệt, bình quân mỗi ha đã đạt 2.013kg/vụ.
Việc điều chỉnh lực lượng lao động được đặt ra một cách bức thiết, bởi vì mật độ dân số và sự phân bố đất đai trong địa phương không đều làm hạn chế đến việc khai thác tiềm năng của địa phương, nhất là trong lĩnh vực nông thôn, nông nghiệp.
Cuộc vận động xây dựng hợp tác xã trong thời chiến càng được đảng bộ quan tâm. Năm 1966-1967 có các hợp tác xã:
1. Hợp tác xã Thịnh Mỹ, chủ nhiệm Đậu Huy Lợc
2. Hợp tác xã An Thịnh, chủ nhiệm Nguyễn Viết Ngoan
3. Hợp tác xã Tân Phong, chủ nhiệm Phan Thanh Đắc
4. Hợp tác xã Mỹ Phong, chủ nhiệm Nguyễn Văn Thuyết
5. Hợp tác xã Tân Hương, chủ nhiệm Nguyễn Ngọc Cẩn
6. Hợp tác xã Tân Thanh, chủ nhiệm: Phan Đức Lơn
(Hợp tác xã Thịnh Mỹ thuộc xã Quỳnh Tam, còn Tân Thanh là khai hoang phát triển sản xuất vẫn thuộc xã Quỳnh Thiện).
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”- Lời kêu gọi của Bác Hồ đã thấm sâu vào mỗi con tim, khối óc của người Việt Nam. Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Thiện quyết đem hết tinh thần, nghị lực ra để thực hiện lời kêu gọi của Bác.
Trong giới trẻ, phong trào "Ba sẵn sàng" do Trung ương Đoàn phát động đã thôi thúc hàng trăm thanh niên lên đường nhập ngũ, đi thanh niên xung phong, tình nguyện phục vụ cho bộ đội, chiến đấu trên quê hương. Mỗi người đều tình nguyện tham gia đóng góp vào cuộc chiến. Từ năm 1967-1968, đội xe đạp thồ do đồng chí Nguyễn Viết Thiện chỉ huy cùng 12 xe đạp trực thuộc tiểu đoàn Quỳnh Lưu tham gia vận chuyển hàng hoá vào Nam. Cùng thời gian đó, tham gia đoàn dân công hoả tuyến cùng với huyện Yên Thành (10/1967-12/1968) có đồng chí Nguyễn Bá Hoà làm trung đội trưởng chỉ huy 20 xe đạp thồ gồm các xã Quỳnh Vinh, Quỳnh Thiện, Quỳnh Lộc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Qua năm 1969 đồng chí Phan Đức Trại được giữ chức đại đội phó thanh niên xung phong của huyện Quỳnh Lưu, Quỳnh Thiện có 12 người tham gia phục vụ chiến dịch Mường Xén – Xiêng Khoảng (Lào). Trong những năm 1971-1972, Đoàn dân công phục vụ chiến dịch Hạ Lào, đồng chí Nguyễn Duy úc được huyện điều phụ trách chính trị viên phó cùng với 150 người lên đường phục vụ chiến dịch…
Phong trào “Ba đảm đang” do Trung ương Hội phụ nữ Việt Nam phát động ngày 19-3 -1965 được nữ giới mọi lứa tuổi sôi nổi hưởng ứng. Hàng trăm phụ nữ Quỳnh Thiện, sau khi học tập nội dung đã đăng ký tình nguyện ghi tên thực hiện phong trào. Các chị Bùi Thị Đào, Nguyễn Thị Minh, Võ Thị Định… làm chủ tịch UBND xã trong thời kỳ đánh Mỹ. Nhiều chị em làm thư ký, đội trưởng sản xuất, tổ trưởng trực chiến, phụ trách quán nước quân nhân. Có những chị em lâu nay bình thường nhưng qua học tập đã tỏ ra hăng hái xung phong, quan tâm đến công việc chung của tập thể. Hầu hết họ là những người mẹ, người chị, nàng dâu mẫu mực, tự nguyện đăng ký sẵn sàng thay thế cho chồng con, anh em lên đường chiến đấu. Trong phong trào “Ba đảm đang”, phải kể đến Hội mẹ chiến sỹ và những người phục vụ cho bộ đội, cán bộ khi đi qua dừng chân nghỉ lại. Họ không kể thời gian, phục vụ bất cứ lúc nào khi bộ đội, cán bộ, đã để lại dấu ấn đẹp đẽ “tình quân dân cá nước”.
Công tác giao thông vận tải trong thời chiến rất quan trọng, như mạch máu trong một cơ thể con người. Quỳnh Thiện là nơi yết hầu, cửa ngõ của Nghệ An, là trọng điểm đánh phá của không quân, hải quân của đế quốc Mỹ. Hàng vạn tấn bom đạn được chúng dội xuống nơi đây. Nhưng bất chấp những hy sinh mất mát, dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, nhân dân xã Quỳnh Thiện đã quyết tâm “xe chưa qua nhà không tiếc”, “nhà tan cửa nát cũng ừ, đánh tan giặc Mỹ, cực chừ, sướng sau”, tất cả để rồi “phà Hoàng Mai, đêm đêm xe cứ vượt, chở đạn bom ra chiến trường”. Nhiều nhà dân còn là nơi dành cho các cơ quan Nhà nước đóng trên địa bàn, làm nhà kho cất dấu vũ khí lương thực, nơi làm việc của các ngành, các cấp.
Chiến tranh là thế, không một phút ngơi nghỉ: thi đua làm kịp thời vụ, chăm sóc vật nuôi, cây trồng, di dời, dãn dân, thuỷ lợi, trực chiến, chiến đấu… rồi những công việc đột xuất khác. Tháng 9-1965, Trạm thuỷ sản của Nhà nước đóng tại Quỳnh Phương có nguy cơ bị máy bay Mỹ huỷ diệt. Trước tình hình đó, huyện đã chỉ đạo cho các đảng bộ tập trung di chuyển bằng mọi cách để cứu hàng. Thực hiện mệnh lệnh của trên, bằng tất cả phương tiện hiện có: xoong nồi, thúng mủng…, chỉ trong 10 ngày, nhân dân vùng Hoàng Mai đã di chuyển, cứu được 2.000 tấn chượp mắm đến nơi an toàn, bảo quản chu đáo, sau đó giao lại cho Nhà nước.
Việc bảo đảm tính mạng, tài sản cho nhân dân được đảng bộ chỉ đạo quyết liệt với tinh thần “mở rộng nhà bếp, thu xếp nhà to, chăm lo hầm hào”, “hầm hào chưa đủ, ăn ngủ không yên”. Nhiều gia đình dỡ nhà để làm hầm chữ A kiên cố; công tác nguỵ trang được làm chu đáo. Để bảo đảm cho con em tới trường, các lớp học được sơ tán tới nơi an toàn và lớp học được làm theo kiểu bán âm, có hầm hào trú ẩn. Nhờ vậy mà một thế hệ học sinh sau này được trưởng thành, trở thành cán bộ lãnh đạo, sỹ quan cao cấp.
Phong trào trồng cây xanh, nguỵ trang che mắt kẻ thù được toàn dân tham gia hưởng ứng. Trên dọc hai bên quốc lộ 1A dài trên 9km đều được trồng cây phi lau, xà cừ, trên các trận địa trồng chuối, bạch đàn…, không những để che mắt kẻ thù mà còn tạo ra cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp trong thời chiến.
Sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, đêm đêm, lực lượng thanh niên cùng với bộ đội đào công sự, kéo pháo. Có những đêm mưa tầm tã, công việc kéo dài đến hết đêm. Các em trong độ tuổi thiếu niên góp nhặt từng mảnh giẻ để góp phần cùng bộ đội lau chùi súng đạn, nhặt từng cành lá nguỵ trang cho công sự pháo, gánh nước tưới cho cây…, góp phần cùng toàn huyện đóng góp 15.631 gánh lá nguỵ trang, 34.458 lượt kéo pháo.
Trong khói lửa của cuộc chiến, công tác y tế chăm lo sức khoẻ cho nhân dân và kịp thời cứu người bị thương khi địch oanh kích được đặt ra và được bố trí khắp mọi nơi. Tại Trung tâm của xã có ông Nguyễn Văn Khang (Quỳnh Hậu) làm trạm trưởng, Nguyễn Thị Loan làm y tá, Nguyễn Thị Uynh làm hộ sinh, Đinh Xuân Lượng làm y sỹ. Trạm Đồng Sen phục vụ dân sơ tán có Nguyễn Viết Lịch làm trạm trưởng cùng với chị Nguyễn Thị Tình, Nguyễn Thị Kiều, vùng di dân Tân Thanh có Hoàng Hanh...
Tang thương, mất mát nhưng không một phút bi quan, “tiếng hát át tiếng bom” được cất cao. Đội văn nghệ của quê nhà vẫn được duy trì để biểu diễn trong các dịp tết, các ngày lễ hội và chào mừng những chiến công của Đảng bộ và nhân dân.
2. Tranh thủ thời gian ngưng chiến, tích cực khôi phục kinh tế, khôi phục mạng lưới giao thông, tập trung vận chuyển hàng hoá vào chiến trường.
Bị thất bại liên tiếp trên các chiến trường, đế quốc Mỹ buộc phải xuống thang ngừng ném bom miền Bắc và ngày 31-10-1968, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Pari. Níchxơn lên thay Giônxơn làm Tổng thống vẫn cố giữ miền Nam trong quỹ đạo thực dân mới với chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", tăng cường các hoạt động gián điệp, chiến tranh tâm lý nhằm phá rối hậu phương miền Bắc.
Trước tình hình mới, Đảng bộ Quỳnh Thiện tiến hành Đại hội lần thứ VII (1969), quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 25-3-1969: "… Ta phải đề cao cảnh giác nhưng phải hết sức tranh thủ những thuận lợi mới, khắc phục khó khăn, tăng cường lực lượng miền Bắc và chi viện cho miền Nam". Đại hội đề ra biện pháp tăng cường công tác lãnh đạo đối với việc khôi phục kinh tế, quản lý nhân công lao động, đề cao công tác an ninh - quốc phòng, chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt để ứng phó với tình hình địch đánh phá trở lại miền Bắc, ưu tiên chi viện sức người sức của cho cách mạng miền Nam.
Đại hội bầu Ban chấp hành và phân công:
Đồng chí Nguyễn Ngọc Cẩn Bí thư
Đồng chí Nguyễn Thị Minh Chủ tịch (12/1969-4/1971)
Các Phó chủ tịch: Phan Đức Tạo, Nguyễn Hồng Tởn (12/1969-4/1971)
Đến năm 1970, địch ngừng ném bom, dân được chuyển về Giếng Hàng, Chùa Bụt, ngày nay thành lập lên khối Tân Tiến, Tân Hương.
Toàn Đảng, toàn dân đã hưởng ứng phong trào thi đua "Tiến công ba mũi", do hai hợp tác xã làm điểm: HTX toàn xã Hùng Phong, ông Nguyễn Hồng Tởn làm chủ nhiệm và HTX Thanh Hương (Tân Hương và Tân Thanh) do ông Nguyễn Duy Bảy làm chủ nhiệm, sau đó đồng chí Nguyễn Bá Thái làm chủ nhiệm.
Mục tiêu của ba mũi tiến công là: san lấp hố bom, chữa đường giao thông, làm thuỷ lợi nội đồng; cắt cử người sửa chữa hệ thống đại thuỷ nông Đô Lương; mở rộng diện tích canh tác.
UBND xã điều hành lực lượng ra quân trên các tuyến giao thông. Trên đồng ruộng, hàng ngàn người của hai HTX san lấp hố bom từ Cổ Bù ra khe Nước Lạnh… Sau một thời gian, cơ bản hoàn chỉnh việc san lấp, đưa vào sản xuất. Phong trào 5 tấn thóc/1ha-2 con lợn/năm, phát triển mạnh mẽ trong các HTX cho đến tận hộ xã viên.
Gần một năm tạm thời có hoà bình, đảng bộ nhân dân xã Quỳnh Thiện phấn đấu bền bỉ thu được nhiều thành tích trong việc phát triển kinh tế, kiện toàn chính quyền và các đoàn thể, bầu HĐND 2 cấp… Giữa lúc toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang nô nức "đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào" để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc thì 9 giờ 47 phút ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Bác đã để lại cho chúng ta một bản Di chúc bất hủ. Trung ương Đảng, Chính phủ ra lời kêu gọi mọi người dân hãy biến đau thương thành hành động cách mạng. Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Thiện tổ chức học tập theo Di chúc của Người, tạo ra một phong trào mạnh mẽ tiến quân vào mặt trận khôi phục kinh tế, phát triển sản xuất toàn diện theo hướng thâm canh, tăng năng suất cây trồng, nhằm tạo ra hiệu quả kinh tế cao nhất trên đơn vị diện tích, hạ giá thành sản phẩm, tăng thu nhập cho xã viên, giải quyết vững chắc lương thực thực phẩm. Năm 1969, huy động nghĩa vụ lương thực cho Nhà nước đạt yêu cầu, mức ăn chia bình quân đầu người đạt 14,5kg/tháng. Công tác tuyển quân đạt chỉ tiêu trên giao, công tác hậu phương quân đội được chú ý quan tâm. Các gia đình có hai con đang chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên các chiến trường, con liệt sỹ, thương binh được chăm lo giúp đỡ, ưu tiên trong ăn chia theo định suất của HTX.
Trong khi miền Bắc tạm thời đình chiến, cuộc chiến đấu ở miền Nam vẫn diễn ra quyết liệt, đòi hỏi phải có sự chi viện lớn, khẩn cấp hơn. Xã Quỳnh Thiện trở thành nơi đón nhận các cơ quan: Trường Đại học Sư phạm Vinh (khoa Hoá), Huyện uỷ, UBND huyện ra trực tiếp chỉ đạo phong trào. Các xóm Thịnh Mỹ, Vưu Mỹ, An Thịnh, Tân Phong… là nơi đặt chân hàng tiếp tục được vận chuyển theo quốc lộ 1A, đường sông, đường biển vào chiến trường.
Chiến dịch đường 9 Nam Lào được mở ra ngày 30-1-1971. Trong năm, đảng bộ và nhân dân đã đưa tiễn hai đợt với gần 50 thanh niên lên đường nhập ngũ. Ngày 25-3-1971, chiến dịch Nam Lào toàn thắng. Bị thua đau ở chiến trường miền Nam, địch tiếp tục do thám miền Bắc hòng ngăn chặn sự chi viện của ta.
Tháng 4 -1971, Đại hội đảng bộ xã khoá VIII được tiến hành. Đại hội đề ra nhiệm vụ: "Về lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, học tập và làm theo hợp tác xã Thượng Yên (Quỳnh Yên), tiếp tục thực hiện mục tiêu xây dựng 3 ngọn cờ hồng, hỗ trợ lẫn nhau để hoàn thành nhiệm vụ chính trị".
Đại hội bầu BCH và phân công:
Đồng chí Nguyễn Ngọc Cẩn được bầu lại làm Bí thư.
Đồng chí Phan Đức Duật, Trực Đảng.
Đồng chí Phan Thanh Đắc, Chủ tịch.
Đồng chí Nguyễn Bá Túa, Phó chủ tịch
Sau gần 3 năm trong điều kiện tạm có hoà bình, đảng bộ, nhân dân Quỳnh Thiện hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, vừa kiện toàn, xây dựng HTX, phát huy được ba ngọn cờ hồng, chi viện chiến trường, tạo được niền tin của nhân dân đối với Đảng.
3. Đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của đế quốc Mỹ, tiếp tục chi viện cho chiến trường cho đến ngày toàn thắng.
Thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của quân và dân ta trong xuân - hè 1971 đã dẫn đến những thay đổi quan trọng trong cục diện chiến tranh. Về phía địch, chúng cố gắng tìm mọi cách ngăn chặn cuộc tiến công của ta trên chiến trường miền Nam, mặt khác huy động một lực lượng lớn không quân, hải quân kết hợp tung gián điệp, biệt kích ra phá hoại hậu phương và hành lang chiến lược của ta.
Tháng 3 - 1972, Đại hội đảng bộ lần thứ IX được tiến hành, Đại hội đánh giá những việc lớn làm được trong thời gian ngừng chiến và chuẩn bị chống chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của đế quốc Mỹ, đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong giai đoạn lịch sử mới. Đại hội bầu BCH và phân công:
Đồng chí Nguyễn Bá Vựng, Bí thư
Đồng chí Phan Đức Duật, Trực Đảng
Đồng chí Phan Thanh Đắc, Chủ tịch
Đồng chí Nguyễn Bá Túa, Phó Chủ tịch
11 giờ ngày 30-3-1972, cuộc tiến công chiến lược của quân và dân ta ở miền Nam bắt đầu. Qua 6 ngày tấn công, quân và ta đã đập nát tuyến phòng thủ mạnh nhất của nguỵ quân Sài Gòn tại Quảng Trị, giải phóng Đông Hà. Các mặt trận Tây Nguyên, Bình Long… cũng giành được thắng lợi .
Trước nguy cơ sụp đổ của Mỹ - nguỵ, ngày 6-4-1972, chúng gây ra cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc. Bằng những phương tiện chiến tranh hiện đại như máy bay B52, F111… chúng đánh vào những thành phố đông dân như Hà Nội, Hải Phòng… với tính chất huỷ diệt nhằm tạo ra thế mạnh, nhất là trên bàn đàm phán ở Hội nghị Pari.
Trên quê hương Quỳnh Thiện, từ 6-4-1972 đến cuối năm, chúng không những ném bom xuống các mục tiêu cầu, phà, đường thuỷ, đường bộ… mà cả các khu vực đông dân cư. Để đảm bảo an toàn cho nhân dân, trong thời kỳ này nhân dân làng mới (Giếng Hàng, Chùa Bụt) được sơ tán ra vùng Tân Thanh (Thanh Hoá), nhân dân làng cũ sơ tán lên Đồng Sen, Mu Cua…
Ngay đêm 6-4-1972, địch ném một loạt bom bi khoan loại mới xuống nhà làm ông Đậu Khang chết.
Ngày 12-6-1972, một loại bom từ trường được rải xuống chùa Bụt, giếng Hàng, rú Đồn, mỏ Kẽm… BCH xã đội báo vào Huyện đội, Huyện đội cử đồng chí Võ Văn Chức ra kiểm tra ở khu vực mỏ Kẽm. Cùng đi có đồng chí Khoát chiến sỹ công binh, đồng chí Nguyễn Bá Vựng Bí thư và đồng chí Nguyễn Bá Hoa. Bom nổ làm đồng chí Chức hi sinh, số người cùng đi bị thương nhẹ. Đảng bộ và nhân dân xã Quỳnh Thiện lo mai táng chu đáo cho đồng chí Chức.
Ngày 20-8-1972, bom ném xuống phà Hoàng Mai, bị trệch hướng rơi vào làng, gia đình ông Nguyễn Bá Hiềng (xóm Trung Mỹ) chết 1, gia đình ông Nguyễn Bá Lạc chết 3 người.
Ngày 21-8-1972, bom ném xuống khu vực khe Nước Lạnh, ông Nguyễn Văn Mỵ tiếp tế lương thực cho gia đình lên vùng sơ tán bị bom Mỹ giết hại.
Ngày 6-10-1972, pháo kích vào xóm Nam Mỹ, ông Nguyễn Duy Khánh từ vùng sơ tán về bị chết.
Ngày 9-10-1972, pháo kích vào xóm Bắc Mỹ làm bà Nguyễn Thị Cảnh chết.
Những ngày cuối năm 1972, địch đánh phá vào các trục đường giao thông, bến phà, nơi đặt hàng. Chúng đánh vào các xóm Thịnh Mỹ, An Thịnh, Tân Phong, Nam Mỹ… làm hàng chục ngôi nhà bị hỏng: nhà ông Phan, ông Thăng, ông Xuân, bà Định, ông Xơng, ông úc.
Cuối năm 1972, Níchxơn huênh hoang ra lệnh mở cuộc tập kích đường không, dùng máy bay B52 làm chủ bài tập trung đánh xuống Hà Nội, Hải Phòng. Cuộc đọ sức lịch sử diễn ra suốt 12 ngày đêm vô cùng quyết liệt nhưng chúng ta đã chiến thắng. ý đồ đàm phán trên thế mạnh của Mỹ bị thất bại, chúng buộc phải xuống thang ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra.
Hiệp định Pari được ký kết ngày 27-1-1973 là thắng lợi vô cùng to lớn của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ chống đế quốc Mỹ xâm lược. Nhưng thắng lợi đó chưa trọn vẹn, Mỹ rút về nước, quân nguỵ vẫn còn, chúng vẫn chưa từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta.
Nhân dân sơ tán ở vùng Tân Thanh, Đồng Sen, Mu Cua lại trở về quê hương cũ.
Tháng 9/1973, Đại hội đảng bộ lần thứ X diễn ra, Đại hội bầu BCH và phân công.
Đồng chí Nguyễn Bá Vựng, Bí thư
Đồng chí Nguyễn Bá Doãn, Trực Đảng
Đồng chí Võ Thị Định, Chủ tịch
Đồng chí Nguyễn Bá Túa, Phó chủ tịch
Trong vòng một tháng (từ 18-2 đến 18-3-1973), huyện mở chiến dịch "Bắc Quảng Trị" ở vùng Hoàng Mai, huy động 15.000 người, san lấp 850 hố bom (mỗi hố phải san lấp từ 300 - 500m3), phục hoá 300ha, vỡ hoang 325 ha, gieo cấy được 550ha, trồng thêm 200ha sắn. Tổng khối lượng trong một tháng hành động đạt 1.510.000m3, kéo dài 9 km kênh mương từ đập Khe Bung về phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt.
Trên mặt trận quốc lộ 1A do xã Quỳnh Thiện đảm nhận, đã xây dựng được một con kênh kép dọc đường, làm được 19.600 m3 đất, vượt kế hoạch 3.340 m3; đào, bới gộc cây, giải phóng 70 ha, năng suất lao động đạt 135%.
Tháng 6/1974, Đại hội đảng bộ xã lần thứ XI diễn ra. Đại hội đề ra nhiệm vụ: “tất cả cho chiến trường miền Nam", củng cố hợp tác xã, đẩy mạnh sản xuất. Đại hội bầu BCH và phân công:
Đồng chí Phan Thanh Đắc, Bí thư
Đồng chí Nguyễn Bá Doãn, Trực Đảng
Đồng chí Võ Thị Định, Chủ tịch
Đồng chí Nguyễn Bá Túa, Phó chủ tịch
21 năm (1954 - 1975) là giai đoạn lịch sử đặc biệt của Đảng bộ và nhân dân, kể từ khi có xã Quỳnh Thiện. Qua sản xuất, chiến đấu, xây dựng, đã tôi luyện thử thách, cả một thế hệ đội ngũ cán bộ và công lao đóng góp của nhân dân. Phong trào tiếp nối phong trào, không một phút ngơi nghỉ: từ khai hoang vỡ hoá đất đai để phát triển sản xuất, phân bổ dân cư, làm thuỷ lợi đến việc chăm lo học hành cho thế hệ trẻ, cũng như xây dựng hệ thống chính trị.
Bên cạnh những thành tích đạt được, Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Thiện vẫn có những hạn chế, thể hiện trong cơ chế quan liêu mệnh lệnh, cứng nhắc theo sự chỉ đạo của trên, không biết vận dụng vào điều kiện hiện có của quê hương, chưa phân biệt giữa cái chung và cái riêng trong điều kiện đặc thù. Nhưng điều khẳng định: “Quỳnh Thiện vẫn là trung tâm kinh tế - chính trị - an ninh - quốc phòng của cả vùng phía Bắc huyện Quỳnh Lưu”. Chúng ta thật đáng tự hào, công lao về đóng góp của Đảng bộ, nhân dân xã Quỳnh Thiện vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, bảo vệ miền Bắc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đảng bộ, nhân dân xã Quỳnh Thiện qua cuộc kháng chiến đã trưởng thành về mọi mặt; bằng trí tuệ, tâm huyết của mọi thành viên để hoàn thành sứ mệnh. Nhiều đồng chí được trưởng thành từ cơ sở: đồng chí Nguyễn Viết Hườu, quyền chủ tịch uỷ ban nhân dân huyện; đồng chí Bùi Thị Đào phó chủ tịch UBND huyện, nhiều năm liên tục làm bí thư (chủ tịch) Hội phụ nữ huyện… và rất nhiều người con quê hương ra đi trở thành giáo sư, tiến sĩ, cán bộ cao cấp trong quân đội.
Công lao đó thuộc về sự lãnh đạo của Đảng bộ, sự góp sức của nhân dân. Đó là đảng bộ đã biết bám sát vào tình hình thực tiễn của địa phương, đội ngũ cán bộ được bố trí, sử dụng một cách hợp lý, với tác phong “miệng nói tay làm”, nên tất cả mọi công việc đều trôi chảy. Đối với nghĩa vụ Nhà nước “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, bao giờ vẫn “thóc thừa, quân vượt”. Trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, đã anh dũng bám trụ quê hương, cùng với cả nước làm nên chiến thắng.
Góp phần vào chiến thắng đó còn có lực lượng đoàn thanh niên với phong trào “Ba sẵn sàng”, xứng đáng là cánh tay đắc lực, đội hậu bị tin cậy của Đảng, sẵn sàng tham gia quân đội và đi bất cứ nơi đâu khi Tổ quốc cần. Hàng trăm lượt người tham gia quân đội, thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến.
Hội liên hiệp phụ nữ với phong trào “Ba đảm đang” thật xứng đáng với danh hiệu “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
Cuộc kháng chiến trường kỳ đã đi qua, Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Thiện đã đưa tiễn gần 600 con em lên đường nhập ngũ, hàng trăm thanh niên xung phong phục vụ trên các chiến trường. Lịch sử ngàn đời ghi nhớ 73 liệt sỹ đã ngã xuống, 120 thương binh, bệnh binh đã để lại một phần máu xương trên các chiến trường. Hàng trăm vụ địch ném bom xuống quê hương, tàn phá làng mạc, ruộng đồng, làm gần 100 người dân vô tội bị đế quốc Mỹ sát hại. Những hy sinh mất mát, đó để cho quê hương, Tổ quốc có ngày hôm nay. Xã vinh dự, tự hào có hai bà mẹ được Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 496 người được tặng thưởng Huân, Huy chương các loại, 362 gia đình được nhận Huy chương, ghi nhận sự đóng góp với Tổ quốc. Tự hào thay quê hương Quỳnh Thiện, nơi địa đầu huyện Quỳnh Lưu, xứ Nghệ.
Chương V
Đảng bộ và nhân dân thị trấn Hoàng Mai vững bước đi lên trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, đổi mới quê hương, ĐấT NƯớC (1975 - 2008)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lâu dài, gian khổ, ác liệt của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam sau hơn 21 năm (1954-1975) đã giành thắng lợi vẻ vang; non sông thu về một mối, cả nước thống nhất cùng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cũng như cả nước, Đảng bộ, nhân dân Quỳnh Thiện hân hoan phấn khởi, tin tưởng bước tiếp chặng đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Chặng đường đầy thử thách hơn 2 thập kỷ của thế kỷ 20 là quá nặng nề so với lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đối với miền Bắc, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa xây dựng căn cứ địa cách mạng vững chắc cho cả nước, vừa trực tiếp đánh trả hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, giữ vững hậu phương, chi viện cho cách mạng miền Nam. Bởi vậy, mỗi người dân ở miền Bắc phải căng sức “mỗi người làm việc bằng hai”, “tất cả vì miền Nam ruột thịt”… đã để lại một quá khứ không thể phai mờ trong lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc ta và rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá cho chặng đường nối tiếp.
Ngày 25-4-1976, cả nước tổ chức cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội thống nhất. Tại phiên họp đầu tiên, Quốc hội đã biểu quyết nhất trí cao đổi tên nước thành “Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Tháng 12 năm 1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng khẳng định con đường tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và đổi tên Đảng thành “Đảng cộng sản Việt Nam", trở về với tên gọi mà khi mới thành lập, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc (chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu) đã đặt. Điều đó khẳng định ý chí của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Cùng với cả nước, cả tỉnh và cả huyện, Đảng bộ, nhân dân xã Quỳnh Thiện bước vào một thời kỳ mới, có nhiều thuận lợi cơ bản và những khó khăn đan xen, đòi hỏi phải có quyết tâm lớn để vượt qua. Vừa bước ra khỏi cuộc chiến, cũng như mọi miền quê trên cả nước, nhưng nơi đây là trọng điểm đánh phá của địch, nhiều lần địch chà đi, xát lại nên biết bao công việc sau chiến tranh cần phải giải quyết, những vấn đề kinh tế - xã hội - an ninh - quốc phòng đặt ra khá gay go. Các lĩnh vực này trong thời chiến bị cuốn hút bởi cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ miền Bắc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chi viện sức người, sức của giải phóng Miền Nam thống nhất Tổ quốc nên chưa bộc lộ những thiếu sót lớn, bởi vì tất cả đều làm theo “mệnh lệnh”. Chuyển qua thời bình, phong cách lãnh đạo, chỉ đạo, động viên của Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể không thể rập khuôn, mệnh lệnh như thời chiến mà cần phải có tầm tư duy mới, thay đổi phong cách lãnh đạo, chỉ đạo, động viên của cả hệ thống chính trị.
I. 10 năm xây dựng và bảo vệ tổ quốc, xây dựng quê hương của Đảng bộ và nhân dân xã Quỳnh Thiện.
Tháng 5-1975, Đại hội Đảng bộ xã Quỳnh Thiện lần thứ XII được tiến hành. Đại hội tập trung thảo luận, nhất trí cao với quyết tâm khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, nhất là thực hiện việc tổ chức lại sản xuất theo sự chỉ đạo của Trung ương, thực hiện Quyết định của Thường trực Tỉnh uỷ Nghệ An số 07-TB/TU ngày 14-5-1975 về phương án kinh tế của huyện Quỳnh Lưu.
Đại hội bầu BCH và phân công:
Đồng chí Phan Thanh Đắc, Bí thư
Đồng chí Nguyễn Bá Doãn, Trực Đảng
Đồng chí Nguyễn Bá Thái, Chủ tịch
Đồng chí Nguyễn Bá Túa, Phó Chủ tịch.
Quán triệt tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu lần thứ XV đã đề ra phương hướng, mục tiêu cho cả thời kỳ 1976-1980 là: “Phát triển kinh tế toàn diện, đồng thời phát triển văn hoá giáo dục, ổn định đời sống nhân dân, làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước, trên cơ sở làm tốt công tác phân phối, lưu thông; trị an, quốc phòng, rèn luyện bồi dưỡng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Ra sức phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Xây dựng tổ chức chính quyền, đoàn thể đủ mạnh làm tròn nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới"().
Sau một năm kiện toàn tổ chức, sự chỉ đạo, điều hành của Đảng uỷ, chính quyền và hoạt động của các đoàn thể, đảng bộ, nhân dân bước vào giai đoạn mới. Tổ chức lại sản xuất, tiếp tục thực hiện chủ trương di dân (1975-1977), nhân dân làng cũ chuyển dân ra Làng Mỗi, Khe Mây (nay là khối Tân Sơn). Cùng thời kỳ đó số dân làng cũ di dân ra làng mới, ngày nay hình thành các khối Tân Tiến, Tân Hương, Tân Thành.
Tháng 5-1976, theo quy hoạch là huyện điểm tổ chức lại sản xuất, ba xí nghiệp làm điểm được hình thành gồm: xí nghiệp Quỳnh Sơn (Hồng - Hậu - Thạch); xí nghiệp Quỳnh Phú (Liên - Bảng) và xí nghiệp Quỳnh Mai, bao gồm các xã QuỳnhVinh - Quỳnh Thiện - Quỳnh Dị.
Xí nghiệp Quỳnh Mai có diện tích tự nhiên 4.725 ha, trong đó đất nông nghiệp 2.340 ha, đất canh tác 1.815 ha, diện tích hai lúa 845 ha, lúa màu 520 ha, chuyên màu 375 ha, cây lâu năm 125 ha, đất lâm nghiệp 329ha. Dân số hiện tại 13.500 người, 5.500 lao động.
Phương thức sản xuất gồm:
Trồng lúa, màu, rau, cói.
Chăn nuôi lợn, cá, dê, gà công nghiệp
Trồng rừng thông nhựa, khoanh nuôi và bảo vệ rừng
Công nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí, chế biến thức ăn gia súc.
Trung tâm cụm là Quỳnh Thiện.
Trên cơ sở quy hoạch và nhiệm vụ xí nghiệp Quỳnh Mai, trong suốt 5 năm xí nghiệp Quỳnh Mai có hai kỳ Đại hội.
Tháng 5-1976, trên cơ sở hợp nhất ba Đảng bộ, Đại hội lần thứ nhất được tiến hành. Đại hội xác định rõ nhiệm vụ, chuẩn bị tốt nhất về tư tưởng, hành động, xây dựng cơ sở vật chất, nhân lực để chuẩn bị khởi công xây dựng công trình thuỷ lợi Vực Mấu trên thượng nguồn sông Hoàng Mai, đồng thời tích cực chủ động phòng tránh thiên tai, bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội bầu Ban chấp hành và phân công:
Đồng chí Trần Luân, Bí thư Đảng bộ xí nghiệp
Đồng chí Trần Hanh, Trực Đảng ().
Đồng chí Hồ Nuỵ, () Chủ tịch xí nghiệp Quỳnh Mai
Đồng chí Nguyễn Bá Thái, Phó chủ tịch
Đồng chí Lê Thạc Trường, Phó chủ tịch.
Các đơn vị Đảng cơ sở cũ hình thành với mô hình đảng bộ bộ phận.
Trong lĩnh vực kinh tế, các hợp tác xã được thống nhất lấy tên là hợp tác xã xí nghiệp Quỳnh Mai.
Chủ nhiệm HTX là đồng chí Văn Huy Luyện; sau đó là Nguyễn Ngọc Cẩn
Sau một thời gian nghiên cứu, khảo sát trên thực địa, ngày 30-9-1976, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 389/QĐ-TTg phê chuẩn quy hoạch sản xuất của huyện Quỳnh Lưu. Quyết định nêu rõ phạm vi, ranh giới, phương hướng sản xuất và phân bổ đất đai, tổ chức lại sản xuất, biện pháp thực hiện vốn, đầu tư, tăng cường cán bộ chỉ đạo… Điều này thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Trung ương đối với Đảng bộ, nhân dân Quỳnh Lưu, trong đó đặc biệt là Đảng bộ, nhân dân Quỳnh Thiện, đồng thời cũng là trách nhiệm nặng nề trước Trung ương. Mục đích của Trung ương là “Kết hợp chặt chẽ giữa củng cố quan hệ sản xuất với phát triển lực lượng sản xuất ở miền Bắc, kết hợp cải tạo quan hệ sản xuất với phát triển lực lượng sản xuất ở miền Nam, thực hiện 3 cuộc cách mạng: Cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng văn hoá tư tưởng, lấy cách mạng khoa học kỹ thuật làm then chốt, tận dụng mọi khả năng về đất đai, tiền vốn, sức lao động và các cơ sở vật chất, kỹ thuật sẵn có và được xây dựng thêm quy hoạch tổ chức lại sản xuất của hai miền, tạo ra sự chuyển biến cách mạng trong cơ cấu trồng trọt, chăn nuôi ngành nghề, phân bổ đất đai theo hướng chuyên canh, thâm canh tập trung, tập trung mọi cố gắng mở rộng diện tích ở trung du, miền núi, ven biển, xây dựng và phát triển nông nghiệp với tốc độ nhanh và vững chắc nhằm giải quyết đủ lương thực, thực phẩm và có dự trữ, bảo đảm nguyên liệu cho công nghiệp, tăng nguồn hàng xuất khẩu, cải thiện một bước đời sống nhân dân, tăng tích luỹ để tái sản xuất”().
Ngày 7-7-1977, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh ra Nghị quyết số 11-NQ/TU về việc “tập trung lãnh đạo, xây dựng huyện Quỳnh Lưu thành huyện mẫu” trong tổ chức lại sản xuất, phát triển kinh tế, thực hiện thắng lợi Nghị quyết lần thứ IX của Đảng bộ tỉnh Nghệ Tĩnh(). Nghị quyết nhấn mạnh: “Trong những năm tới, Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Lưu phải phát huy cao độ tinh thần cách mạng tiến công, tinh thần tự lực tự cường, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tiếp đến dấy lên cao trào cách mạng sôi nổi, liên tục phấn đấu đưa kinh tế Quỳnh Lưu phát triển toàn diện”().
Thực hiện Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo quyết liệt của Huyện uỷ, thực hiện phương châm “lấy sức dân là chính, có sự hỗ trợ của tỉnh và Trung ương”, với khí thế cách mạng diễn ra sôi nổi, toàn Đảng bộ, nhân dân xí nghiệp Quỳnh Mai bước vào một giai đoạn quyết liệt, khai hoang vỡ hoá diện tích bị bỏ hoang. Bằng sức người cùng cơ giới kết hợp san ủi các cồn cao, cất bốc quy tập mồ mả nằm rải rác trên các cánh đồngvào các nơi quy định; đắp đập, ngăn khe tạo ra hồ chứa nước, đắp đê, ngăn mặn không cho nước thuỷ triều tràn lên để ngọt hoá đồng ruộng. Đắp bờ tạo thành bờ vùng, bờ thửa, đưa diện tích hàng trăm ha vào sản xuất. Dời dân từ làng cũ ra Khe Mây (thành lập khối Tân Sơn hiện nay).
Để đưa cơ giới hoá vào sản xuất, vấn đề đòi hỏi là giao thông thuỷ lợi phải được cơ cấu đồng bộ, bố trí hợp lý theo các tuyến đường ngang dọc, thuận tiện cho việc vận chuyển đi lại sản xuất. Các trục đường chính được hình thành: trục đường nối quốc lộ 1A đi ga Hoàng Mai, tuyến nối quốc lộ 1A đi Quỳnh Lộc-Quỳnh Lập, tuyến trung tâm Hoàng Mai đi Quỳnh Phương nối với tuyến Bãi Ngang ven biển… Đồng thời các trục đường liên thôn, liên xã được uốn nắn đào đắp, tạo điều kiện cho xe cơ giới hạng nặng đi lại dễ dàng…
Đây thực sự là cuộc cách mạng phát triển lực lượng sản xuất và cải tạo quan hệ sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Diện tích ô, thửa được hình thành, mở rộng, san bằng đồng ruộng, đẩy mạnh công tác làm thuỷ lợi lên đến đỉnh điểm. Năm 1978, công trình thuỷ lợi Vực Mấu (thượng nguồn sông Hoàng Mai), qua quá trình khảo sát thiết kế nay bước vào giai đoạn thi công, là công trình lớn nhất ở Bắc miền Trung do ta thiết kế và thi công trong cuối thế kỷ XX. Công trình ở phía Tây Bắc huyện Quỳnh Lưu, thuộc vùng giáp ranh giữa các xã Quỳnh Trang, Quỳnh Tân và Quỳnh Thắng. Hồ hoàn thành sẽ tưới được hơn 2.000 ha đồng ruộng cho vùng Tây Bắc của huyện và cản lũ hàng năm cho các xã ở hạ nguồn sông Hoàng Mai, đồng thời tạo ra môi trường, sinh thái cảnh quan thu hút khách du lịch. Công trình thể hiện mẫu mực phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, hoàn thành với sự đóng góp hơn 3 triệu ngày công, đào đắp được 1.600.000 m3 đất… Tổng giá trị công trình 19 triệu đồng (tương đương với ngày nay hơn 200 tỷ đồng), trong đó Trung ương và tỉnh hỗ trợ 1/3 kinh phí, còn lại là sức dân đóng góp. Xí nghiệp Quỳnh Mai đã thành lập Ban chỉ đạo, điều nhân lực hàng vạn ngày công, ngày đêm lăn xả dầm nắng, giải mưa, màn trời, chiếu đất cùng các đơn vị chủ lực Quỳnh Trang, Quỳnh Tân, Mai Hùng và các xã khác trong huyện đóng góp hoàn thành công trình của thế kỷ XX.
Trong lúc chúng ta dồn sức lực, khôi phục hàn gắn vết thương sau chiến tranh, đẩy mạnh sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, từng bước ổn định và nâng cao đời sống cho nhân dân lao động thì tình hình thế giới diễn biến phức tạp, đặc biệt là tình hình trên bán đảo Đông Dương. Đế quốc Mỹ cùng các thế lực thù địch ráo riết tiến hành chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng tiến hành bao vây, cấm vận về kinh kế, kết hợp với các phần tử bất mãn, xuyên tạc, vu khống nhằm chống lại chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chúng kích động, lôi cuốn những phần tử từ trong nội bộ đảng để tiến hành gây bạo loạn lật đổ. Nghiêm trọng hơn, chúng gây ra hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới Phía Bắc.
Ngày 17-2-1979, chúng ngông cuồng phát động cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc. Trước nguy cơ Tổ quốc bị xâm lăng, ngày 3-3-1979, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra lời kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân dồn sức chống xâm lược. Ngày 4-3-1979, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ban hành lệnh Tổng động viên.
Đảng bộ, nhân dân xí nghiệp Quỳnh Mai lại bước vào một thời kỳ mới, huy động tổng lực sức người và của cho cuộc chiến tranh vệ quốc. Lực lượng thanh niên lại nô nức tòng quân xung phong gia nhập lực lượng vũ trang. Thật cảm động, tự hào khi những cựu chiến binh đã trải qua hai cuộc kháng chiến lâu dài, vẻ vang của dân tộc nay được nghỉ hưu, chuyển ngành, phục viên, xuất ngũ, đoàn tụ với gia đình, xây dựng quê hương, nhưng trước lời kêu gọi của BCH Trung ương Đảng và lệnh Tổng động viên, họ không ngần ngại một lần nữa quên thân vì nước. Họ đã viết đơn, kể cả bằng máu xin được trở lại đội ngũ trực tiếp chiến đấu chống kẻ thù xâm lược.
Với tư thế phòng thủ để chiến đấu, xí nghiệp Quỳnh Mai nằm ở cụm số 4 trong 9 cụm chiến đấu của toàn huyện; gồm xí nghiệp Quỳnh Mai, Mỏ Đá Hoàng Mai, Mai Hùng và Quỳnh Trang. Cả cụm 4 đã làm được 9 vạn chông tre, 6 nghìn chông sắt, mỗi chiến sỹ dân quân tự vệ phải có một cọc chống tăng, dài 4m đường kính 20cm, cung cấp gần 1.000 gốc tre tươi, huy động 1.500 du kích bố phòng thường trực ở ven bờ biển. Tất cả nhân lực, vật lực xí nghiệp Quỳnh Mai đã cùng với cả huyện rào được 25.773 m, hàng rào bằng tre và gỗ ven tuyến biển của huyện, đã huy động 167.397 ngày công, rào được 488.211 cây các loại chủ yếu là tre, chông sắt; đào chôn cọc chống tăng 16.938 cây; rèn 7.091 chông sắt, dây thép cột hàng rào 250kg, xây lô cốt ở tuyến biển và khu vực trọng điểm 141 cái; hầm chỉ huy 3 chiếc, nhà trực gác, lợp ngói 3 chiếc; công sự cho pháo 57ly 2 hầm, hầm ẩn nấp bằng kèo gỗ hình chữ A; 877 chiếc, các kiểu hầm khác 1.370 chiếc và đào giao thông hào 527.746m. 12 trận địa chốt được xây dựng trên các đỉnh cao, những trọng điểm, đào công sự chiến đấu 10 chiếc; hầm cất dấu vũ khí, đạn dược 6 chiếc. Nguyên vật liệu được sử dụng: xi măng 6.700kg, vôi khối 134.810kg, đá hộc 9.099m3, cát 434m3, gỗ 1.235m3, ngói dập 2.400 viên. Tổng số ngày công huy động 671.507 công, giá trị thành tiền 955.609 đồng ().
Trước sức ép của hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, hơn nữa việc huy động nhân lực đi xây dựng các công trình của tỉnh như Đô Lương, Sông Nghèn…, kênh Bình Sơn, trọng điểm là hồ Vực Mấu, việc cải tiến quản lý xí nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, kỹ thuật hoá đòi hỏi ngày càng cao, việc điều hành nhân lực phải thật sự khoa học. Nhưng cán bộ quản lý chưa được bồi dưỡng bài bản, có chăng thì chỉ được tập huấn ở những lớp ngắn hạn, chắp vá; trình độ quản lý theo kế hoạch và toàn diện còn yếu, không chặt chẽ, nhất là khâu quản lý ngày công, điều hành nhân lực, định mức công không hợp lý trên từng công việc. Trên thực tế, việc điều hành quản lý theo đội chuyên, chuyên môn hoá công việc nhằm nâng cao tay nghề, nhưng trình độ bất cập, bộ máy quản lý cồng kềnh; địa bàn hoạt động rộng, phương tiện đi lại khó khăn (đi bộ hoặc xe đạp) nên điều hành không kịp với thời gian công việc đòi hỏi.
Việc đầu tư dàn trải, chỉ chú trọng cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng như nhà kho, sân phơi, cải tạo đồng ruộng, di dời dân, làm giao thông thuỷ lợi, cất bốc di dời mồ mả… Chưa chú trọng đầu tư cho khoa học kỹ thuật, đào tạo cán bộ, du nhập giống mới không đáp ứng với yêu cầu thực tế đặt ra. Bởi vậy việc ăn chia phân phối ngày càng thấp.
Tổ chức lại sản xuất, lao động xã hội được phân công, điều hành trên quy mô lớn, đầu tư tập trung vào việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và các công trình phúc lợi tập thể cho nhân dân, việc làm đó là cần thiết, nhưng diễn ra nhanh chóng, có phần thiên về duy ý chí chủ quan, dẫn đến gò ép, mệnh lệnh. Nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về tư tưởng “làm ăn lớn” chưa được quán triệt sâu sắc. Nên thời gian này, người lao động có tư tưởng “ỷ vào tập thể”, họ không chí thú làm ăn, tinh thần “hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ” hầu như bị lãng quên.
Để hoàn thành nhiệm vụ, huy động đủ lực lượng, làm nghĩa vụ đối với Nhà nước, Ban quản trị đã dùng phương sách “rong công, phóng điểm”, lúc công việc cần thì tăng lên 30%. Các khâu then chốt có tính quyết định để tăng năng suất cây trồng như àm cỏ, chăm bón, bảo vệ, thuỷ lợi… không được chú ý, người lao động tính toán thiệt hơn, chọn những việc dễ, nhiều điểm để làm. Những việc khó, ít điểm, kéo dài thì không ai nhận(). Khâu then chốt là áp dụng khoa học kỹ thuật để tăng năng suất, tăng sản phẩm cho xã hội không được chú ý. Đến lúc thu hoạch, đội trưởng, thư ký có nhiều việc làm không minh bạch như giấu diếm năng suất, sản lượng, tăng khống điểm cho người nhà… Đối với người lao động, lúc thu hoạch lúa, màu đều cố ý bỏ sót để con, cháu đi sau “mót”, thậm chí có người còn thu dấu sản phẩm để rồi bất cứ lúc nào, vắng người là họ chớp thời cơ đưa về.
Mặt khác, trong những 1978 - 1980 thời tiết không thuận, lụt bão liên tiếp diễn ra, giá trị ngày công chỉ tính bằng, thậm chí không bằng một lạng thóc. Người nông dân không hào hứng với công việc mà chỉ làm chiếu lệ, miễn sao đủ được ngày công, không bị phạt. Không đủ ăn, họ phải tìm cách chạy chợ, ngược xuôi để kiếm cân khoai, củ sắn, duy trì cuộc sống cho gia đình. Giá lương thực, thực phẩm tăng vọt. HTX mua bán khan hiếm hàng hoá, không đủ cung cấp những mặt hàng thiết yếu cho người dân; việc học hành sa sút, nhiều học sinh bỏ học, chất lượng giáo dục không đáp ứng yêu cầu.
Nền kinh tế nước ta bước vào giai đoạn khủng hoảng, cơ chế bao cấp đang cản trở sự phát triển, nhất là trên lĩnh vực phân phối lưu thông. Việc đổi tiền năm 1978 cũng như hiện tượng “cấm chợ ngăn sông” làm cho tình hình thêm phức tạp.
Thời điểm bùng nổ khủng hoảng về kinh tế - xã hội trong những năm đầu thập niên 80, mà trước đó, cuối những năm 70 đã lâm vào bế tắc mà biểu hiện rõ nét nhất là hiệu quả sản xuất thấp, đời sống của xã viên gặp muôn vàn khó khăn, người lao động không thiết tha với ruộng, trình độ cán bộ quản lý yếu, nhiều tiêu cực đã xẩy ra… Do vậy, nhiều nơi ở miền Bắc đã diễn ra “khoán chui” trong nông nghiệp. Thực tế cho thấy ở những nơi đó bước đầu cởi bỏ được ách tắc, khó khăn, đời sống của xã viên được cải thiện trên mảnh ruộng mà lâu nay họ thường làm.
Trong hoàn cảnh đó, tháng 8-1979, BCH Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 (khoá IV) bàn và quyết định những nhiệm vụ cấp bách về kinh tế và đời sống, làm cho sản xuất “bung ra”. Hướng đổi mới là chống tập trung quan liêu, đảm bảo quyền làm chủ về kinh tế của các ngành, các cấp, kết hợp kế hoạch hoá với sử dụng cơ chế thị trường. Hội nghị chủ trương xoá bỏ những chính sách, cơ chế kinh tế không còn phù hợp với thực tế sản xuất và đời sống. Hội nghị nhấn mạnh việc kết hợp chặt chẽ ba lợi ích: Nhà nước, tập thể, cá nhân người lao động để khuyến khích mọi người hăng say sản xuất. Tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá sự đúng đắn của các chính sách là tăng năng suất lao động, sản xuất phát triển và đời sống nhân dân được cải thiện.
Qua thực tiễn từ Hội nghị Trung ương 6, ngày 13-1-1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 100-CT/TW. Theo nội dung cơ bản của Chỉ thị 100 và sự hướng dẫn của trên, các cơ sở hợp tác xã thực hiện “năm khâu, ba khoán”. Tập thể đảm nhận năm khâu: làm đất, cung ứng vật tư, phân bón, bảo vệ thực vật và bảo vệ đồng ruộng. Nhóm và hộ gia đình xã viên nhận ba khoán: gieo cấy, chăm sóc và thu hoạch; giao nạp sản phẩm theo định mức khoán trên đơn vị diện tích.
Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ra đời như một luồng sinh khí mới, tiếp sức cho ước mong chờ đợi lâu ngày của người lao động muốn được cởi trói để gắn bó thiết tha hơn với đồng ruộng.
ở Quỳnh Lưu, các xí nghiệp vẫn tồn tại. Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ và Trung ương, Huyện uỷ vẫn tiếp tục lãnh đạo xây dựng huyện thành đơn vị nông - công nghiệp. Nhưng trước thực tiễn đặt ra, các xí nghiệp bắt đầu bộc lộ những nhược điểm nên phải giải thể trở về nguyên đơn vị hành chính cũ (tháng 8-1981). Việc giải thể xí nghiệp là yếu tố khách quan bởi vì cả nước đang trong một nền sản xuất nhỏ manh mún, lực lượng sản xuất chưa phát triển, đội ngũ cán bộ chưa kịp đào tạo đáp ứng với yêu cầu của nền sản xuất lớn.
Tuy vậy, xí nghiệp cũng làm được nhiều việc lớn, nếu không có sự hiệp tác thì khó mà làm được. Ruộng đất được điều chỉnh, đồng ruộng được cải tạo một cách cơ bản, giao thông, thuỷ lợi được quy hoạch, xoá bỏ bờ cong, ruộng méo, cồn chãi được san lấp, mồ mả được quy tập…, là một bước tạo điều kiện cho quy hoạch sau này. Đội ngũ cán bộ được tôi luyện qua thử thách của thực tiễn.
Sau khi xí nghiệp giải thể, Đảng bộ xã Quỳnh Thiện được kiện toàn. Tháng 9-1981, Đại hội đảng bộ xã lần thứ XV diễn ra, bầu ra BCH và phân công:
Đồng chí Nguyễn Bá Doãn, Bí thư
Đồng chí Nguyễn Viết Hữu, Trực Đảng
Đồng chí Nguyễn Bá Túa, Chủ tịch
Đồng chí Nguyễn Viết Quang, Phó chủ tịch
Thời kỳ cuối năm 1981 đến năm 1982, Đảng bộ, chính quyền xã tập trung giải quyết những tồn tại sau khi xí nghiệp giải thể. Năm 1981, số dân của xã Quỳnh Vinh di dân ra Tân Hùng được sát nhập vào xã Quỳnh Thiện.
Đại hội lần thứ XVI được tiến hành tháng 10/1982, bầu ra Ban chấp hành và phân công:
Đồng chí Nguyễn Bá Doãn, Bí thư
Đồng chí Nguyễn Viết Hữu, Trực Đảng đến tháng 3- 1984, đồng chí Nguyễn Bá Sơn, Nguyễn Bá ổn đến hết nhiệm kỳ.
Đồng chí Nguyễn Bá Túa, Chủ tịch đến tháng 12 - 1983, đồng chí Nguyễn Tiến Cường, từ tháng 1 - 1984
Đồng chí Nguyễn Viết Quang, Phó chủ tịch đến tháng 12 – 1983, đồng chí Nguyễn Văn Việt từ tháng 1- 1984.
Trong lĩnh vực sản xuất, việc điều hành “5 khâu, 3 khoán”, phần nhiều do nhóm, hộ gia đình xã viên đảm nhận. Dù là tập thể hay cá nhân, nhóm hộ thực hiện Chỉ thị 100 trong giai đoạn từ năm 1981 đến 1988 để đến khi có Nghị quyết 10 của Trung ương ra đời, giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho người lao động đã thúc đẩy sản xuất phát triển, đời sống nhân dân được cơ bản cải thiện, góp phần ổn định, giữ vững trật tự, an ninh thôn xóm, tránh được sự “ngăn sông, cấm chợ”, “chạy bữa trưa, mất bữa tối”.
Sự nghiệp giáo dục thời kỳ này cũng gặp muôn vàn khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn. Năm 1983, trường cấp 1 và trường cấp 2 nhập lại thành trường cấp 1-2 Quỳnh Thiện do thầy Nguyễn Văn Bằng (Quỳnh Lâm) làm hiệu trưởng, thầy Bùi Đình Châu (Quỳnh Vinh) làm hiệu phó phụ trách cấp 1. Khối cấp 1 có 12 lớp với khoảng 600 em, cấp 2 có 10 lớp có khoảng 500 em. Công tác phòng và chữa bệnh cho nhân dân từng bước được khởi sắc.
Trong những năm thực hiện Chỉ thị 100, Đảng uỷ, chính quyền xã đã chỉ đạo hợp tác xã đẩy mạnh khai hoang, phục hoá, cho dân tận dụng hết cồn bãi bỏ hoang để trồng sắn, khoai… Các hợp tác xã chủ động du nhập các giống mới: giống lúa Nông nghiệp 5, Nông nghiệp 8 dần dần thay thế giống lúa dài ngày cho năng suất thấp. Nhờ các biện pháp đồng bộ, người dân từng bước đủ ăn không phải như trước đây, được bữa trưa lo bữa chiều.
Cuối năm 1981 – 1982, đảng bộ, chính quyền tập trung giải quyết những vấn đề tồn đọng. Trong lĩnh vực sản xuất, vẫn duy trì một hợp tác xã: năm 1980 ông Văn Sĩ Khoát làm chủ nhiệm, năm 1981- 1982 ông Nguyễn Bá Thái chủ nhiệm, năm 1982- 1985, ông Nguyễn Duy Ân chủ nhiệm. Đến cuối năm 1985, hình thành hai HTX: HTX Nam Thắng do ông Đậu Đức Long chủ nhiệm, HTXN Bắc Thắng do ông Mai Xơng chủ nhiệm.
Giữa năm 1985, nền kinh tế bước vào giai đoạn khủng hoảng, Trung ương Đảng có Nghị quyết xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Nhằm thúc đẩy sản xuất và kinh doanh ngày càng có hiệu quả, ngày 1-8-1985, Chính phủ ban hành Quyết định xoá bỏ chế độ tem phiếu, thực hiện bù giá vào lương, xoá dần chế độ bao cấp và thực hiện đổi tiền. Việc đưa tem phiếu và phí lưu thông vào giá trị hàng hoá làm giá thành sản phẩm hàng hoá lên quá cao, việc tiêu thụ hàng hoá bị giảm sút. Nguy hiểm hơn là bọn gian thương biết tin trước khi đổi tiền nên tung tiền vơ vét hàng hoá của Nhà nước để đầu cơ, sau khi đổi tiền xong sẽ tung hàng ra bán.
Quỳnh Thiện, nơi trung tâm có cửa hàng bách hoá tổng hợp, hợp tác xã mua bán, tín dụng của huyện nên tình hình diễn ra càng phức tạp hơn, làm cho thị trường thêm rối loạn. Trong bối cảnh đó, Đại hội Đại biểu đảng bộ xã lần thứ XVII (tháng 9 - 1985) được tiến hành, bầu ra Ban chấp hành và phân công:
Đồng chí Phan Đức Chuôn, Bí thư.
Đồng chí Nguyễn Bá Tởn, Trực Đảng, đến tháng 6/1987 đồng chí Nguyễn Tiến Cường.
Đồng chí Nguyễn Tiến Cường, Chủ tịch UBND xã
Đồng chí Nguyễn Văn Việt, Phó chủ tịch
Hai năm 1985-1986, bão lụt, nắng hạn liên tiếp xẩy ra làm cho tình hình kinh tế - xã hội vốn đã khó khăn càng trở nên khó khăn hơn, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và sản xuất của người lao động.
Mười năm thật là ngắn ngủi so với lịch sử hàng ngàn năm có con người sinh sống nơi đây, một thập kỷ đầy khó khăn và thử thách trên con đường tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng, của dân tộc ta và cả với quê hương. Trong khó khăn, gian khổ, Đảng bộ, nhân dân Quỳnh Thiện càng hiểu sâu sắc hơn công sức đổ ra, những trăn trở… tất cả vì phía trước, tin vào tiền đồ, tương lai con đường của Đảng và Bác Hồ muôn vàn kính yêu đã lựa chọn.
II. Đảng bộ, nhân dân Quỳnh Thiện đi lên trong sự nghiệp đổi mới, định hướng XHCN (1986-2008):
Tháng 12-1986, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã nghiêm túc kiểm điểm, đánh giá những thành tựu và những thiếu sót sai lầm trong thời gian qua. Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh: “đối với nước ta, đổi mới đúng là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn”. Nghị quyết cũng chỉ rõ: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, “đổi mới tư duy không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã được xác định, trái lại, chính là bổ sung và phát triển những thành tựu ấy” ().
Đại hội nhấn mạnh những nhiệm vụ cơ bản là “Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, triệt để xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện chính sách xã hội “vì hạnh phúc của con người”.
Tháng 11-1987, Đại hội lần thứ XVIII của xã Quỳnh Thiện được tiến hành. Đại hội kiểm điểm thực hiện 3 chương trình do Đại hội lần thứ VI của Đảng và Đại hội XX Đảng bộ huyện đề ra, nghiêm túc kiểm điểm đánh giá những việc chưa làm được, đề ra phương hướng, tiến hành bầu BCH Đảng bộ và phân công:
Đồng chí Nguyễn Bá Hùng Bí thư
Đồng chí Nguyễn Thị Vinh Trực đảng
Đồng chí Nguyễn Bá Túa Chủ tịch
Đồng chí Nguyễn Văn Việt Phó Chủ tịch (sau đó đồng chí Nguyễn Văn Việt thay đồng chí Nguyễn Bá Túa; đồng chí Trần Quang làm phó chủ tịch).
Trong hai năm 1987-1988, do thiên tai, hạn hán bão lụt gây ra nên bình quân lương chỉ đạt 102 kg thóc/người/năm. Năm 1988, hợp tác xã Bắc Thắng đưa vào sản xuất 240 mẫu, thu hoạch được 168 tấn, bình quân 70 kg/sào. Hợp tác xã Nam Thắng đưa vào sản xuất 124 mẫu, thu hoạch được 136 tấn, năng suất bình quân 110 kg/sào. Từ năm 1982, sau khi triển khai thực hiện Chỉ thị 100-CT/TW, tuy thời tiết không thuận nhưng nhờ khoán nên sản lượng lương thực tăng, chăn nuôi vẫn phát triển. Đàn lợn năm 1988 có 1.100 con (Nam Thắng 490 con, Bắc Thắng 620 con); năm 1990, đàn lợn đạt 1.410 con (Nam Thắng 630 con, Bắc Thắng 780 con), đàn bò cày kéo đạt 307 con đủ sức kéo, cày cho hộ gia đình.
Qua 8 năm thực hiện khoán theo Chỉ thị 100, trên lĩnh vực nông nghiệp có nhiều chuyển biến tích cực nhưng chế độ quản lý trong hợp tác xã biểu hiện còn nhiều bất cập, bộ máy quản lý cồng kềnh, trình độ quản lý, điều hành sản xuất kém hiệu quả, nhất là việc áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất. Tuy vậy, các hợp tác xã vẫn duy trì, mở rộng diện tích và đưa cây con, giống mới vào sản xuất, đã khai hoang phục hoá 201 mẫu ở vùng Đồng Hội, đập Đá Chiêng, phía trên và dưới cầu La Man vùng Cống Nan, đập Thiện Kỵ, khoanh vùng để làm cói, lúa. Công tác thuỷ lợi trong 2 năm tuy chưa đạt kế hoạch đề ra nhưng đã thực hiện được 28.000 m3, đạt 83% kế hoạch. Đã trồng được 2,3 mẫu/chỉ tiêu 2,5 mẫu cói, thu hoạch được 3.472kg. Công tác trồng rừng có tiến bộ vượt bậc, trồng được 21 vạn cây trên diện tích 60 ha so với chỉ tiêu 10 vạn cây, đạt trên 200% kế hoạch. Ngành nghề, dịch vụ được mở ra, việc nung vôi, khai thác đá, sửa chữa xe đạp, dịch vụ bước đầu có khởi sắc. Cửa hàng mua bán bước đầu làm ăn có lãi. Hợp tác xã tín dụng do đồng tiền bị trượt giá, cơ chế rút tiền, gửi tiền không hợp lý, nhiều người không muốn gửi nên không đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
Kinh tế hộ gia đình có chiều hướng tăng trưởng, ngoài việc nhận khoán cây lương thực, cây màu các hộ còn cải tạo vườn rau màu để trồng cây ăn quả.
Chỉ thị 100-CT/TW thực sự đã "cởi trói" cho sản xuất nông nghiệp, nhưng trong 5 khâu tập thể đảm nhận có lúc là “khoán trắng” cho hộ, mức khoán không công bằng, có lúc có nơi xã viên lại có xu hướng bỏ ruộng để chạy chợ hoặc bỏ sang nghề khác có thu nhập cao hơn. Do đó có tình trạng trả ruộng hoặc khê đọng sản phẩm còn diễn ra.
Nhằm thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo 3 chương trình mà Đại hội VI đã đề ra, ngày 15-4-1988, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 10-NQ/TW về đổi mới quản lý trong nông nghiệp. Nghị quyết 10 đã đề ra một cơ chế mới trong các hợp tác xã nông nghiệp, thay cho Chỉ thị 100-CT/TW năm 1981. Nghị quyết 10 khẳng định hợp tác xã là đơn vị kinh tế tự chủ, hộ gia đình xã viên nhận khoán với hợp tác xã. Hợp tác xã khoán sản phẩm đến người lao động và bảo đảm khâu thời vụ, truyền thông khoa học kỹ thuật, giống cho xã viên … (dân thường gọi khoán 10).
Huyện uỷ Quỳnh Lưu đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW. Đảng uỷ triển khai học tập nội dung Nghị quyết 10 và đề ra kế hoạch thực hiện.
Trong những năm 1988-1990, Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Thiện vẫn phải xoay xở với chương trình lương thực - thực phẩm, tốc độ tăng trưởng về kinh tế chậm, nhưng đã có những dấu hiệu khả quan. Năm 1988, lương thực chỉ đạt 772 tấn, năm 1990 đạt 1.400 tấn, tăng 628 tấn. Mức lương thực bình quân đầu người chung hàng tháng là 14 kg (Bắc Thắng 12 kg, Nam Thắng 16 kg). Năm 1989, HTX Bắc Thắng mua máy cày phục vụ khâu làm đất và bơm nước kênh Nhà Lê để sản xuất vụ xuân được 40 ha. Năm 1991, xây dựng trạm bơm điện.
Biện pháp tăng năng suất cây trồng là ứng dụng khoa học kỹ thuật, đưa giống cây, con vào sản xuất xen canh gối vụ; vụ đông từng bước được khẳng định là vụ thứ ba sản xuất trong năm. Để có được vụ đông, công tác thuỷ lợi càng được đẩy mạnh bảo đảm cho 100 ha đủ nước tưới; bao gồm vùng lúa trên dưới cầu La Man, đập Đá Chiêng và 35 mẫu vùng Làng Dọc, Lèn Cụt, Bắc Thắng, bằng nguồn nước Vực Mấu, đập khe Dũ, trạm bơm kênh Nhà Lê, bồi trúc mương 29, đồng thời làm mương tiêu úng cho vùng sâu cầu La Man, đập Kị, Đá Chiêng và đê ngăn mặn.
Từ 1988 - 1990, với khối lượng đào đắp 54.000 m3 , bình quân mỗi lao động thực hiện 10 m3/năm.
Trồng rừng có nhiều chuyển biến, trồng được 40 ha với trên 10 vạn cây thông và bạch đàn, thu về 10 tấn lương thực từ dự án.
Chăn nuôi là một trong ba mũi nhọn của chương trình mà Đại hội Đảng toàn quốc đề ra, Nghị quyết của Bộ Chính trị khuyến khích mọi người, mọi nhà đẩy mạnh chăn nuôi. Những hộ ở gần núi có điều kiện đã nuôi từ 4-5 con trâu bò, có hộ mỗi năm xuất chuồng 150-200 kg lợn hơi. Bình quân mỗi hộ hàng năm xuất chuồng được từ 50-60 kg lợn hơi.
Hai hợp tác xã mua bán và tín dụng bám sát nhiệm vụ, từng bước vươn lên phục vụ đời sống nhân dân và đẩy mạnh sản xuất.
Hợp tác xã mua bán đạt tổng mức 3,7 triệu đồng, mua vào đạt 197%. Hình thức kinh doanh mở rộng hơn: mua gỗ, mét, nứa, lợn hơi của hộ xã viên để trao đổi, không ngồi chờ ỉ lại như trước đây.
Hợp tác xã tín dụng hoạt động trong điều kiện khó khăn do Nhà nước điều chỉnh giá - lương - tiền, đồng tiền mất giá, nhưng được sự hỗ trợ của Hội Bảo thọ (nay là Hội Người cao tuổi) đóng góp cổ phần. Đảng uỷ có Nghị quyết mỗi cán bộ, đảng viên phải mua quỹ công trái, đóng góp quỹ bảo thọ và quỹ bảo trợ. Đối với các hộ dân mỗi hộ mỗi tháng phải gửi 500 đồng tiền tiết kiệm những hộ có tiền nhàn rỗi, cán bộ hưu trí có mức lương cao phải gửi 1.000 đồng/tháng để bảo đảm cho hợp tác xã tín dụng hoạt động.
Các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp vẫn dừng lại ở thế độc canh, chưa khai thác được tiềm năng, chưa kích thích người lao động và chưa mở được nhiều ngành nghề mới, chưa đảm nhận được các khâu, đầu tư xây dựng điện - đường - trường -trạm - thuỷ lợi.
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng tình hình kinh tế - xã hội đã có những biến chuyển tích cực. Đời sống nhân dân từng bước được ổn định. Văn hoá xã hội có những nét mới. Hệ thống truyền thanh được hình thành và tích cực chuyển tải những chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước đến với mọi người.
Trạm y tế được củng cố, công tác kế hoạch hoá gia đình từng bước được mọi người chấp nhận các biện pháp tránh thai; khám chữa bệnh cho hơn 3.000 lượt người.
Giáo dục từng bước được xã hội hoá. Năm học 1990-1991, tách trường cấp I và cấp II ra, nhiều nơi trong huyện có nhiều học sinh bỏ học, nhưng cả xã chỉ có từ 25-30 em, là trường có số lượng học sinh bỏ học ít nhất huyện. Học sinh giỏi huyện có 4 em. Trường mẫu giáo là một trong ba trường xuất sắc của huyện.
Trong xây dựng kiến thiết, bước đầu đã đầu tư xây mới 7 phòng học, tu sửa 5 phòng học bằng ngói và 6 phòng học bằng tranh, tu sửa trạm xá, nhà mẫu giáo do bão lụt phá hoại; các tuyến đường liên hương, liên thôn được bồi đắp hơn 9.000 m3 đất đá. Bước đầu xây dựng cảng sông vùng đội 1 Nam Thắng, tiếp tục đắp, tôn tạo các kênh, mương, đê, đập.
Sau 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới những cố gắng, việc làm được của Đảng bộ và nhân dân trong điều kiện nền kinh tế khủng hoảng đang từng bước phục hồi là đáng trân trọng, đó là tiền đề điều kiện để vươn lên sau này.
Công cuộc đổi mới của Đảng đang diễn ra theo chiều hướng tích cực, nhưng tình hình thế giới, nhất là các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa diễn ra khá phức tạp. Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu lâm vào khủng hoảng toàn diện, nghiêm trọng, sự nghiệp cách mạng của nước ta lại đứng trước những khó khăn lớn do tác động của tình hình thế giới.
Tháng 9 năm 1991, Đại hội Đảng bộ Quỳnh Thiện lần thứ XIX đã diễn ra. Đại hội tập trung thảo luận và đưa ra chương trình hành động thực hiện các Nghị quyết của đảng cấp trên. Đại hội đã bầu ra ban chấp hành và phân công:
Đồng chí Đậu Đức Long, Bí thư Đảng bộ
Đồng chí Trần Quang, Trực Đảng, sau đó là đồng chí Nguyễn Bá Thọ
Đồng chí Nguyễn Văn Việt, Chủ tịch
Đồng chí Nguyễn Bá Hương(), Phó Chủ tịch
Nhiệm kỳ 1987 - 1991, dân số toàn xã có 5.151 người, 1.106 hộ; nếu tính cả số khẩu và hộ Nhà nước các cấp huyện, tỉnh, Trung ương đóng trên địa bàn sẽ là 6.400 khẩu.
Tổng diện tích tự nhiên 1.160ha, trong đó diện tích canh tác 206,6ha. Đất kiến thiết cơ bản 42,5 ha, đất giao thông thuỷ lợi 42,5ha, đất hoang hoá 22,5ha, đất ao hồ 10,5ha.
Trên địa bàn xuất hiện thêm một công trình mới là nhà máy xi măng Hoàng Mai được quy hoạch và chuẩn bị xây dựng.
Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh: tuy có nhiều chuyển biến nhưng tình hình sản xuất vẫn phụ thuộc lớn vào thiên nhiên, do vậy phải tăng cường cơ sở vật chất làm thuỷ lợi, làm cống tưới tiêu hợp lý, dùng máy bơm để cung cấp nước cho vùng cao.
Hai nhiệm kỳ khoá XX và khoá XXI (từ năm 1994 - 2000).
Khoá XX (1994-1996):
Đồng chí Đậu Phi Nính, Bí thư
Đồng chí Nguyễn Duy Nguyên, Trực Đảng
Đồng chí Đậu Đức Long Chủ tịch
Đồng chí Nguyễn Bá Hoành Phó chủ tịch
Khoá XI (1996 - 2000):
Đồng chí Đậu Phi Nính, Bí thư
Đồng chí Nguyễn Bá Huy, Trực Đảng
Đồng chí Đậu Đức Long, Chủ tịch
Đồng chí Nguyễn Bá Hoành, Phó chủ tịch đến tháng 12-1999, đồng chí Phan Đức Điểm, Phó chủ tịch cho đến hết nhiệm kỳ.
Trong hai nhiệm kỳ tiếp tục giải quyết những hậu quả của việc xung đột Vinh - Thiện theo Chỉ thị số 12-CT/HU của Ban Thường vụ Huyện uỷ Quỳnh Lưu ngày 23/3/1994 về tự phê bình qua sự việc xẩy ra tại hai xã Quỳnh Vinh - Quỳnh Thiện.
Chỉ thị viết: “Do tính chất phức tạp, tích tụ một số mâu thuẫn kéo dài, mà đặc biệt là vấn đề đất đai, địa giới hành chính giữa hai xã sau khi có Quyết định 103-QĐ/UB, ngày 2/5/1983 của UBND huyện, mặc dù đã có sự chỉ đạo trực tiếp của cấp trên trong quá trình giải quyết những mâu thuẫn đó, song do thiếu sự bình tĩnh, ý thức chấp hành pháp luật, các Chỉ thị, Quyết định của cấp trên không nghiêm nên trong thời gian vừa qua để xảy ra xung đột mà đỉnh cao là từ ngày 28-1 đến 2-2-1994. Đây là một vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, phải giải quyết dứt điểm và trong một thời gian dài nhằm khắc phục nhanh chóng tình hình, giữ sự bình yên cho nhân dân hai xã, thiết lập trật tự kỷ cương phép nước, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện, cả vùng mà trực tiếp là của hai xã ().
Chỉ thị nêu rõ: phải tự phê bình và phê bình, qua đó để khắc phục sửa chữa, đồng thời xử lý nghiêm những tổ chức và cá nhân cố tình gây hại, vi phạm nguyên tắc Đảng, pháp luật Nhà nước. Đồng thời qua việc phê bình và tự phê bình cần khơi dậy lòng dân vì sự bình yên, hạnh phúc của mọi người, mỗi nhà của hai xã mà đẩy mạnh sản xuất, sống và làm việc đúng đạo lý, tình nghĩa và đúng pháp luật, ủng hộ những việc làm đúng, ngăn chặn và tố giác những người cố tình làm trái, gây hậu quả nghiêm trọng sớm lập lại kỷ cương, quan hệ tốt đẹp, đây là lòng mong muốn của nhân dân hai xã và cả huyện.
Những năm 1994-1999, khí hậu diễn biến thất thường, sản xuất vẫn phụ thuộc thiên nhiên, sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn. Năm 1995, lụt lớn, vụ 10 ở Nam Thắng và các vùng sâu Bắc Thắng mất trắng, năm 1998-1999, hạn hán kéo dài, thiếu nước sản xuất, vùng Tân Hùng và một số vùng Bắc Thắng không có thu hoạch ().
Vụ xung đột hai xã Vinh - Thiện đã chấm dứt, nhưng hậu quả của nó vô cùng nặng nề. Vụ án chưa được xử, tài sản, nhà cửa của 22 hộ dân chưa có hướng giải quyết. Năm 1993-1994, diện tích nương vườn của 22 hộ hầu như bỏ hoang, nghĩa vụ Nhà nước không làm được. Đặc biệt là ngay kỳ họp đầu tiên của Hội đồng nhân dân xã, cả hai vùng Bắc Thắng - Nam Thắng điện bị cắt vì không có tiền nạp, nhân dân rất dao động, tệ nạn trộm cắp trâu bò khá phổ biến, trộm cắp xăng dầu trên quốc lộ 1A xẩy ra thường xuyên, tệ uống rượu xin đểu, tình hình lấn chiếm đất đai, xây dựng nhà trái phép chưa được giải quyết. Cơ sở hạ tầng thấp kém, đặc biệt là các công trình phúc lợi tập thể như trường học, nhà làm việc, giao thông nông thôn xuống cấp nghiêm trọng, đời sống nhân dân đặc biệt khó khăn().
Những khó khăn đó từng bước được khắc phục vì có đội ngũ cán bộ tuy năng lực còn hạn chế, nhưng lòng nhiệt tình, tâm huyết với quê hương, nhân dân lao động cần cù, thông minh sáng tạo; khu công nghiệp Hoàng Mai mở ra đã tạo đà cho đảng bộ, nhân dân có những nét chuyển biến đột phá.
Trên lĩnh vực kinh tế, thời tiết không thuận lợi, diện tích sản xuất do quy hoạch đô thị hoá bị thu hẹp. Năm 1994, diện tích gieo trồng có 414 ha, trong đó diện tích sản xuất nông nghiệp 230 ha. Đến vụ 5 năm 1999, chỉ còn 388 ha giảm 26 ha, đất sản xuất nông nghiệp còn 221 ha, giảm 9 ha. Bình quân lương thực đầu người năm 1999 đạt 156 kg/năm, so với những năm trong thập kỷ 80, tăng 130%.
Nguyên nhân đạt được do sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng uỷ, chính quyền, cùng các đoàn thể trong hệ thống chính trị xã hội, quần chúng nhân dân tự giác đưa giống mới, cây con vào sản xuất nên năng suất và sản lượng từng bước được nâng lên.
Tổng thu nhập GDP năm 1994 đạt 9,3 tỷ đồng, tỷ trọng nông nghiệp đạt 51%; công nghiệp dịch vụ đạt 49%. Năm 1999 tổng thu nhập GDP đạt 14 tỷ vượt 151%, trong đó nông nghiệp đạt 45%, giảm 6%, công nghiệp - dịch vụ đạt 55% tăng 6% so với năm 1994. Chăn nuôi có bước tiến triển mới, tỷ trọng chăn nuôi chiếm 5% trong nông nghiệp; người dân đã chú trọng chọn các giống con có năng suất cao đã có hướng thiên về siêu thịt. Năm 1994, tổng đàn lợn 1500 con đạt 120 tấn. Năm 1998, tổng đàn lợn 2.054 con, trọng lượng xuất chuồng đạt 164,32 tấn tăng 25,6%so với năm 1994, đàn trâu bò cày kéo, sinh sản tăng 21% so với năm 1994. Lĩnh vực lâm nghiệp có nhiều tiến bộ. Tổng diện tích đất lâm nghiệp 746 ha, trong đó đất khoanh nuôi trồng rừng 100 ha; lèn Đá Vôi 250 ha. Từ năm 1995 đến năm 1998, trồng mới được 276 ha, chỉ còn lại 56 ha. Nhờ có dự án 4304 và dự án 327 nên đất lâm nghiệp được khai thác có hiệu quả hơn, chính quyền tiến hành giao đất cho 98 hộ sử dụng lâu dài, nên các hộ đã đầu tư phát triển theo hướng vườn rừng, vườn đồi, xây dựng trang trại để đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Hội làm vườn được thành lập với 20 hội viên ban đầu, đã đi vào hoạt động có nề nếp, 11 hộ đã quy hoạch vườn đồi, vườn rừng với quy mô lớn. Việc chăm sóc và bảo vệ rừng từ khi người dân được giao rừng có trách nhiệm hơn. Bởi vậy từ năm 1994-1999, không còn tình trạng chặt phá, khai thác rừng bừa bãi và không để xẩy ra nạn chặt phá rừng và cũng không có trường hợp nào vi phạm lâm luật.
Cùng với sự phát triển nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ ngày càng phát triển, năm sau cao hơn năm trước. Năm 1994 chỉ có 57 hộ tham gia làm dịch vụ, đến năm 1999 đã có 96 hộ, vượt 168,5%. Một số ngành nghề phát triển theo hướng đô thị hoá, công nghiệp hoá như sản xuất vật liệu xây dựng, sửa chữa cơ khí, làm gốm sứ, dịch vụ vận tải. Một số hộ gia đình liên doanh liên kết mở rộng sản xuất với quy mô lớn nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của địa phương và cung cấp ra ngoài tỉnh, huyện cũng như các nơi khác. Trong lĩnh vực dịch vụ đã tạo công ăn việc làm cho 320 lao động có việc làm ổn định và hàng ngàn lao động vừa sản xuất nông nghiệp vừa làm dịch vụ. Năng lực hỗ trợ cho sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ tăng lên đáng kể, năm 1994 có 7 chiếc xe vận tải, xe công nông 6 chiếc, xe lam 4 chiếc, máy xẻ gỗ 5 chiếc, máy làm đất 3 chiếc và một số phương tiện khác phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
Sản xuất được phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ đời sống và sản xuất được đẩy mạnh. Trước năm 1994 kết cấu hạ tầng quá thấp kém, không đủ chỗ cho học sinh học tập; trụ sở làm việc của Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, các đoàn thể trong hệ thống chính trị chật chội, rách nát. Đường sá đi lại của nhân dân lầy lội mùa lũ lụt… Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng uỷ, HĐND, UBND, sự động viên của các đoàn thể và sự nhiệt tình đóng góp của nhân dân với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, trong 5 năm, Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Thiện đã làm được hàng loạt công trình đáng kể. Làm giao thông nông thôn, huy động 409 triệu đồng, trong đó huy động sức dân đóng góp 133 triệu đồng, bao gồm 9.600 công với 3.100m3 đá, sỏi; ngân sách xã chi 276 triệu đồng. Đầu tư cho lĩnh vực sản xuất, quyên trúc đê, tu sửa mương máng … với kinh phí 628 triệu đồng, trong đó huy động sức dân 85 triệu đồng, các hợp tác xã đóng góp 543 triệu đồng.
Trụ sở làm việc của Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, các đoàn thể được xây dựng mới khang trang. Xây dựng mới trường học cao tầng cho trường Trung học cơ sở, nâng cấp các trường Tiểu học A, Tiểu học B. Hình thành sân vận động nơi khu vực trung tâm, xây dựng đài tưởng niệm các liệt sỹ. Hệ thống loa truyền thanh được củng cố và xây dựng đủ sức tiếp sóng các đài phát thanh ba cấp, xây dựng đường nhựa từ quốc lộ 1A lên giáp xã Quỳnh Vinh. Nâng cấp chùa chiền, đền Bình An được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Các công trình xây dựng bảo đảm thiết kế thi công đưa vào sử dụng có chất lượng hiệu quả, đáp ứng với yêu cầu nguyện vọng của nhân dân. Đời sống tinh thần được nâng lên.
Tính ra, kinh phí cho các công trình xây dựng trong toàn khoá là 3,647 tỷ đồng. Kết quả đó là do sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, sự nỗ lực cố gắng động viên của các đoàn thể trong hệ thống chính trị - xã hội, được nhân dân đồng thuận và sự hỗ trợ của các cấp qua các dự án.
Sự nghiệp giáo dục được Đảng bộ và nhân dân quan tâm, được xã hội hoá từ những năm 1991. Năm 1994 cơ sở vật chất xuống cấp, nghiêm trọng, nhưng từ năm 1995 trở đi các điều kiện cơ sở vật chất từng bước đáp ứng đủ cho các điều kiện dạy và học. Học sinh không còn học ba ca, bàn ghế được sắm mới. Những năm 1994 1999, lĩnh vực giáo dục đã gặt hái nhiều kết quả đáng khả quan, tất cả các trường đều đạt danh hiệu trường tiên tiến cấp tỉnh.
Lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ ban đầu cho nhân dân đã có nhiều tiến bộ, mặc dù trong điều kiện cơ sở vật chất chưa đáp ứng với việc khám và điều trị, nhưng đội ngũ y tế đã tận tình đi xuống từng xóm tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt các chương trình của ngành y tế đề ra; thực hiện tốt công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình. Năm 1994, tỷ lệ sinh 2,2%, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên 41%. Đến năm 1999, tỷ lệ sinh chỉ còn 1,2%, tỷ lệ người sinh con thứ 3 chỉ còn 30,6%.
Nhiệm kỳ khoá XX và khoá XXI (1994-2000) quả là một bước tiến vượt bậc. Từ những mái trường, con đường, nơi làm việc, đài tưởng niệm các liệt sỹ… được đầu tư xây dựng. Đặc biệt là sự nghiệp giáo dục ngày càng vươn lên, không thua kém những xã tiên tiến của huyện, của tỉnh.
Tháng 9/2000, Đại hội đại biểu Đảng bộ xã lần thứ XXII mở đầu cho thế kỷ mới, thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành và phân công:
Đồng chí Nguyễn Bá Huy, Bí thư (từ tháng 9 - 2000 đến tháng 4-2004 sau đó chuyển qua chủ tịch, đồng chí Nguyễn Bá Sự thay).
Đồng chí Nguyễn Bá Sự, Trực Đảng, đến tháng 5-2004 đồng chí Đậu Đức Long.
Đồng chí Đậu Đức Long, Chủ tịch, đến tháng 4- 2004 đồng chí Nguyễn Bá Huy thay
Đồng chí Phan Đức Điểm, Phó chủ tịch.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội, nhiệm kỳ 2000 - 2005, Quỳnh Thiện tiếp tục có những chuyển biến tích cực. Trên lĩnh vực kinh tế, tốc độ tăng trưởng hàng năm tăng 15,5% (Nghị quyết đề ra 10-12%). Tổng thu nhập toàn xã 2005 đạt 43,236 tỷ đồng, trong đó tỷ trọng nông nghiệp 29%, so với năm 2004 giảm 22%, Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp 33% và thương mại dịch vụ 38%. Điều đó khẳng định Đảng bộ và nhân dân đã đi đúng theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trước hết là trong lĩnh vực nông thôn nông nghiệp.
Phát huy lợi thế của địa phương là trung tâm của vùng, lại ở vào vị trí Nam Thanh - Bắc Nghệ, thương mại dịch vụ đã mở rộng theo chiều hướng đa dạng về các loại hình, chủng loại, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, chuyển nhanh từ dịch vụ bán lẻ sang tổng đại lý đưa tốc độ phát triển hàng năm tăng 19,5%. Toàn xã có 25 hộ kinh doanh nhà hàng, khách sạn, 304 hộ kinh doanh buôn bán thương mại - dịch vụ, thu hút hàng trăm lao động nông dân sau mùa vụ tham gia.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản có tốc độ phát triển nhanh, hàng năm tăng 21%. Trên địa bàn có 3 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, 9 công ty trách nhiệm hữu hạn, 10 doanh nghiệp tư nhân, 23 tổ sản xuất, 42 ô tô các loại so với năm 2004 tăng 600%, 2 tàu vận tải 400 tấn… Đã thu hút 500 lao động vào các nghề sản xuất vật liệu xây dựng, gạch, đá, gia công, cơ khí, hàn xì, sửa chữa ô tô, xe máy, may mặc …
Trong lĩnh vực xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt, phục vụ dân sinh: Trung tâm chợ được hình thành, trường học, trạm xá được nâng cấp, 9/10 xóm xây dựng được nhà văn hoá, đường nhựa, bê tông các ngõ xóm cơ bản được hoàn thành, góp phần thay đổi nông thôn, nông nghiệp.
Sản xuất nông - lâm nghiệp có bước chuyển hướng mặc dù diện tích sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp, giảm 1,8 lần so với năm 1994, nhưng dưới sự lãnh đạo của đảng uỷ, chính quyền đã chỉ đạo hợp tác xã đưa khoa học kỹ thuật, đưa giống mới, chuyển dịch những vùng đất làm lúa có năng suất thấp sang làm màu và làm cây công nghiệp ngắn ngày, tăng diện tích vụ đông.
Chăn nuôi từng bước phát triển theo hướng công nghiệp. Đàn bò, dê, hươu phát triển khá: đàn bò có 525 con, tăng 18%, đàn dê có 938 con tăng 15%, đàn hươu 89 con, tăng 24%. Toàn xã có 12 gia đình thu nhập đạt 25 triệu đồng trở lên, bình quân thu nhập đầu người đạt 5,2 triệu đồng/năm, tăng 2,2 lần so với năm 1994.
Đất rừng từng bước đã giao cho các hộ khoanh nuôi bảo vệ. 200/306 ha đã được giao cho 113 hộ, trồng mới 65ha. Việc quản lý và phòng chống cháy rừng đảm bảo, không để xẩy ra cháy rừng, 5 hộ đã xây dựng trang trại vườn - rừng, hàng năm có thu nhập từ 20 triệu đồng trở lên.
Kinh tế phát triển, việc đầu tư cho văn hoá xã hội được tăng cường. Trong nhiệm kỳ 2000 - 2005, đã đầu tư gần 1,5 tỷ đồng xây dựng cơ sở vật chất đảm bảo cho điều kiện dạy và học ở các bậc học, chất lượng giáo dục được nâng lên. Trường mầm non 7 năm liên tục đạt tiên tiến cấp tỉnh, trường tiểu học A đạt tiên tiến cấp tỉnh và trường THCS, tiểu học B đạt tiên tiến cấp huyện. Xã được công nhận là đơn vị tiên tiến về giáo dục, 3/4 trường đạt chuẩn quốc gia, 4/4 trường đạt đơn vị văn hoá trong đó có 1 trường đạt đơn vị văn hoá cấp tỉnh, tỷ lệ giáo viên, học sinh giỏi hàng năm đều tăng, trong 5 năm có 758 em học sinh giỏi: cấp tỉnh 63 em và cấp huyện 695 em. Học sinh đậu vào các trường Đại học, Cao đẳng, trung học chuyên nghiệp năm sau cao hơn năm trước. Trong 5 năm, đã có 154 em đậu đại học, 141 em đậu cao đẳng và 141 em đậu THCN.
Phong trào văn hoá - văn nghệ - thể dục thể thao từ các xóm được đẩy mạnh. 10/10 xóm, 4/4 trường học đều có đội văn nghệ tham gia tích cực vào các ngày kỷ niệm, ngày lễ, Tết; tham dự các cuộc liên hoan do huyện tổ chức đều đạt giải. Hội thi “Tiếng hát làng Sen” năm 2002-2003 đạt giải nhì của huyện. Phong trào thể dục thể thao được duy trì và đẩy mạnh, các đội tuyển, các môn tham gia thi đấu ở huyện đều đạt giải cao.
Đặc biệt là phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” ngày càng đi vào chiều sâu có hiệu quả thiết thực, làm tăng thêm tình làng, nghĩa xóm. Năm 2000, có 70% gia đình văn hoá, năm 2005 có 81,2% gia đình văn hoá, 10 đơn vị đạt văn hoá.
Nhiệm kỳ khoá XXII quả là một nhiệm kỳ mở đầu cho thiên niên kỷ mới, vững tin bước vào thế kỷ XXI bằng trí tuệ, mồ hôi sức lực của đảng bộ và nhân dân, chúng ta càng tin tưởng hơn vào đường lối đổi mới của Đảng, tiến lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Được sự chỉ đạo của Huyện uỷ, ngày 20-6-2005, đảng bộ phấn khởi, tin tưởng bước vào Đại hội đại biểu lần thứ XXIII với khí thế và quyết tâm mới.
Đại hội đã đánh giá và ghi nhận những thành tích đạt được. Các chỉ tiêu Đại hội đề ra đều đạt và vượt, đời sống của nhân dân tiếp tục nâng lên. Số hộ giàu đạt 12%, hộ khá 44,7%, hộ trung bình 40,4%, hộ nghèo chỉ còn 6,5%; nhà cấp 4 trở lên chiếm 93,5%, không có nhà ở tạm tranh tre, nứa, mét.
Đại hội đại biểu lần thứ XXIII đã thành công tốt đẹp. Đội ngũ cán bộ được trẻ hoá, được qua đào tạo cơ bản và được phân công các chức danh chủ chốt.
Đồng chí Nguyễn Bá Sự, Bí thư đảng uỷ.
Đồng chí Nguyễn Bá Hào, Phó bí thư, Trực Đảng.
Đồng chí Nguyễn Bá Huy, Phó bí thư, Chủ tịch UBND
Đồng chí Phan Đức Điểm, Phó chủ tịch.
Đồng chí Phan Đức Nhuận, Phó chủ tịch.
Trong nhiệm kỳ, khu công nghiệp Hoàng Mai cơ bản được quy hoạch, có gần 20 cơ quan Nhà nước, 23 Công ty doanh nghiệp đóng trên địa bàn thị trấn; chợ trung tâm hoạt động khá sầm uất.
Trong nửa nhiệm kỳ 2005-2010, thực hiện Nghị quyết Đại hội XXIII, Đảng bộ đã đạt được những kết quả đáng mừng.
Tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt 17,5% (chỉ tiêu Đại hội là 15-17%). Thu nhập bình quân đầu người 7 triệu đồng, tăng 35% so với năm 2005. Tổng thu nhập toàn xã năm 2007 đạt 64,2 tỷ đồng.
Cơ cấu nông nghiệp - lâm nghiệp - công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - dịch vụ thương mại đã chuyển biến tích cực. Nông - lâm nghiệp chỉ còn 23%, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng đạt tỷ lệ 36%, thương mại dịch vụ đạt 41%. Chiều hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá ngày càng rõ hơn.
Việc đầu tư cho lĩnh vực văn hoá - xã hội được tăng cường. Các trường Tiểu học A, B được đầu tư 287 triệu đồng, trường THCS được đầu tư, xây dựng với kinh phí 2.056 triệu đồng
Giao thông thuỷ lợi được đầu tư nâng cấp 885,5 triệu đồng. Trên nhiều lĩnh vực khác, cũng thu được những kết quả đáng phấn khởi.
Tuy vậy Đảng bộ vẫn nhận ra những hạn chế thiếu sót đó là chuyển dịch cơ cấu, cây trồng chưa đúng tầm và chưa nhân lên điển hình. Việc huy động sức dân để xây dựng kết cấu hạ tầng chưa tương xứng với thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trang sử đang được mở ra, một ngày không xa, thị xã Hoàng Mai sẽ ra đời, tạo thêm thế và lực cho đảng bộ và nhân dân thị trấn bước tiếp chặng đường mới.
Thay cho lời kết
Trú Kỵ cổ xưa, ngày nay là Thị trấn Hoàng Mai, mảnh đất Nam Thanh - Bắc Nghệ đã tồn tại hàng ngàn năm trong lịch sử. Nơi đây xưa kia là một miền quê nghèo khó, chỉ có nghề nông thuần tuý. Con người nơi đây chịu khó, chịu thương, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, hun đúc lên tình làng, nghĩa xóm bền chặt.
Trong tiến trình dựng nước và giữ nước, mảnh đất này đã xuất hiện nhiều danh nhân trên các lĩnh vực. Tiến sĩ Lê Duy Quỳnh mở đầu cho khoa bảng của huyện Quỳnh Lưu, tiến sĩ Đậu Nhân Phương, dạy học và coi thi ở trường Quốc Tử Giám Thăng Long Hà Nội, tiến sĩ Văn Tướng Công; các cử nhân Trần Định, Nguyễn Viết Phú, Hồ Sĩ Tạo, Trần Doãn Lương; các tướng công Đậu Yên Sơn, Đậu Nhân Lý, Đậu Nhân Nghĩa, Đậu Nhân Xã, Đậu Nhân An, Nguyễn Phúc Thiện và nhiều danh nhân khác.
Gần 80 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đi theo tiếng gọi của Đảng, nhiều người con thân yêu của thị trấn đã lên đường chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước. Cách mạng tháng Tám thành công, đến 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, 21 năm chống đế quốc Mỹ xâm lược, nơi đây là mảnh đất anh hùng của hậu phương đối với các chiến trường. Dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, nhân dân thị trấn đã góp công, góp của cho hai cuộc kháng chiến với tinh thần "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", vừa sản xuất, vừa phục vụ chiến đấu và chiến đấu, bảo đảm giao thông đường bộ, đường sông, đường sắt để "phà Hoàng Mai đêm đêm xe cứ vượt, chở đạn bom ra chiến trường". Thành tích nổi bật trong chiến đấu là đã thành lập một trung đội trực chiến cơ động tinh nhuệ, được trang bị súng máy đại liên sau này là súng máy 12,7 ly, bắn cháy một máy bay, bắt sống một giặc lái ngay trên quê hương, được Nhà nước tặng thưởng hai Huân chương Chiến công.
Kết thúc toàn thắng cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, hai bà mẹ Trần Thị Vĩ và Nguyễn Thị Thung được Nhà nước truy tặng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Thị trấn có hai cán bộ lão thành cách mạng là Nguyễn Bá Nghiêm và Văn Sĩ Thọ, hai cán bộ tiền khởi nghĩa là Nguyễn Bá Vựng, Phạm Văn Đàn.
Qua hai cuộc chiến tranh chống xâm lược, 645 người con đã gia nhập quân đội, trong đó tham gia chống Pháp 56 người, chống Mỹ 589 người. 82 người con thân yêu của quê hương đã hy sinh, 79 thương binh, 38 bệnh binh để lại một phần xương máu trên các chiến trường để Tổ quốc có ngày hôm nay. 64 người gia nhập TNXP và rất nhiều lượt người đi dân công hoả tuyến phục vụ trên các chiến trường.
Chiến công đó được ghi nhận: Nhà nước đã tặng thưởng 597 Huân, Huy chương các loại cho cá nhân. 362 gia đình được Nhà nước tặng Huy chương gia đình có công với nước. Ngoài ra còn có nhiều Huân, Huy chương, Kỷ niệm chương, Huân, Huy chương Chiến sĩ vẻ vang; Huân, Huy chương giúp đỡ cách mạng Lào, Campuchia.
Trong kháng chiến và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đảng bộ và nhân dân đã cung cấp nhiều cán bộ cho các ngành từ cấp huyện, tỉnh, Trung ương. Trên 26 giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ; trên 20 cán bộ cao cấp từ thượng tá trở lên; 25 cán bộ từ phó trưởng phòng, giám đốc từ cấp huyện trở lên đến Trung ương.
Ngày nay, trên bước đường tiến lên công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đảng bộ đã sớm nắm bắt chủ trương, đường lối của Đảng các cấp; quán triệt sâu sắc cho cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân. Những Nghị quyết, Chủ trương của Đảng và Nhà nước được vận dụng vào hoàn cảnh thực tiễn của địa phương, làm chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, áp dụng khoa học - công nghệ… Nhờ vậy mà đạt được nhiều kết quả trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, bảo đảm được quốc phòng - an ninh, tạo điều kiện để nhân dân phát huy hết nguồn lực dồi dào, làm ra nhiều của cải cho gia đình và xã hội.
Kinh tế tăng trưởng, đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện, Đảng bộ liên tục nhiều năm đạt trong sạch vững mạnh, trong đó 5 năm liền đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu (2003 - 2008). Đảng bộ có 148 đồng chí được nhận Huy hiệu Đảng. Hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân, các đoàn thể trong hệ thống chính trị - xã hội luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, các trường học… thường xuyên đạt tiên tiến xuất sắc cấp huỵên, tỉnh.
Đạt được thành quả trên là do Đảng bộ biết dựa vào sức mạnh của quần chúng nhân dân, biết lắng nghe ý kiến đóng góp của các bậc tiền bối cách mạng và những cán bộ chủ trì đi trước, cũng như được sự quan tâm giúp đỡ các cấp, các ngành từ huyện đến Trung ương. Đảng bộ thường xuyên quan tâm đến việc bồi dưỡng thế hệ cán bộ trẻ, đảng viên trẻ, đó là đội ngũ kế cận, tiếp tục xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu mạnh.
Thực tiễn gần 80 năm qua đã chỉ rõ: chỉ có đi theo Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng bộ và nhân dân thị trấn mới đạt được thành quả to lớn, thoát khỏi cảnh đói nghèo, vươn tới đổi mới, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, để nhân phẩm, giá trị con người trở thành đích thực.
Ngày nay bộ mặt nông thôn nông nghiệp, ngày càng khởi sắc. Điện - đường - trường - trạm - thông tin - môi trường… ngày càng được hoàn thiện và nâng cấp, trụ sở làm việc ngày càng khang trang. Nơi ở, sinh hoạt của nhân dân ngày càng được đổi mới, phương tiện đi lại phát triển, phần nào đáp ứng được bước đầu quá trình tiến tới công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong nông thôn nông nghiệp.
Chặng đường nối tiếp vẫn còn nhiều gian nan vất vả. Với những gì đạt được trong quá trình xây dựng và trưởng thành, đặc biệt là trong gần tám thập kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp là đảng bộ thị trấn, chúng ta càng tin tưởng, tự hào sẽ đạt được mục tiêu đề ra, vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
phụ lục
THơ chữ hán năm dựng đền thờ Tiến sỹ Lê Duy Quỳnh
“Tự Đức tam thập tam niên dư
Mai giang phiêu địa nghệ sùng từ
Phương anh lưu chiếu thiên thu hậu
Hàn ngưỡng khao đồ phát sắc sơ …”
Đại ý là: Dựng đền Hiền Từ thờ Tiến sĩ Lê Duy Quỳnh năm Tự Đức thứ 33 (1892)
ở vùng đất Cổ Bù bên bờ sông Mai để lưu danh bậc đại khoa đến ngàn năm.
(Trích sách chữ Hán viết về các nhân vật văn võ được làng thờ cúng ở nhà Thánh và các đền Thiện Kỵ …)
Hoàng Mai kiều văn điếu
Hoàng Mai kiều thượng lịch dương hồng
Hoàng Mai kiều hạ thuỷ lưu thông
Nguyên khí phù trầm thương hải ngoại
Tình lám thôn thổ loạn lưu trung
Đoàn xa ngư chẩm cổ kính nguyệt
Trường địch đồng suy cổ kính phong
Đại địa văn chương tuỳ sự kiến
Quan tâm hà sự thái thông thông.
Dịch thơ:
Trên cầu Hoàng Mai bóng xế hồng
Dưới cầu Hoàng Mai nước xuôi đông
Chìm nổi bầu trời ngoài mặt biển
Chập chờn khí núi giữa lòng sông
Thuyền chăng chài gối chiều tối ngắm
Đường gió đông ngàn điệu sáo trong
Cảnh đẹp đất này đâu chẳng có
Vội vã chi thêm bận tấm lòng
18 cảnh đẹp quê hương
Hồ Phú Hào đã phát hiện 18 cảnh đẹp vùng Hoàng Mai là “Sứ lĩnh hồng vân” (Mây hồng núi Sứ), “Mai giang thuỷ nhiễu” (Sông Mai uốn khúc), “Bích ba Hầu lô” (Sông biếc cổ Bầu), “Giang biên quần điểu” (Bên sông cò đậu), “Kỵ tỉnh cô thôn” (Giếng Kỵ ấp xưa), “Đông Hồi phong hải” (Gió biển Đông Hồi), “Tự động phi vân” (Hang Chùa phun mây), “Càn từ mộng linh” (Đền Càn vua mộng) “Tam tượng triều thăng” (Ba voi sóng dậy), “Eo Lèn lộ hiểm” (Đường hiểm Eo Lèn), “Hàn Khê thuỷ mạc” (Khe Nước Lạnh đẹp như tranh), “Thạch Phượng kỳ quan” (Lèn Phượng kỳ quan), “Hàn đàm liên khai” (Rộc Hàn sen nở)…
Hương ước làng thiện kỵ thời nguyễn
Cử nhân Trần Đình Diệp cùng viên chức, phụ lão toàn thôn Thiện Kỵ, tỉnh Nghệ An, thảo bản ước lệ cho thôn làng.
Từ trước thôn ta vốn là đất văn hiến. Tương truyền thời Trần có Thượng thư họ Đỗ, thời nhà Lê có tiến sỹ họ Lê. Tiếp nối khoa cử, nho sinh đời nào cũng có. Tục lệ xưa nay vốn đã thành nếp. Nay bổ sung cho đầy đủ hơn, thiết tưởng cũng là điều có ích. Nay Nhà nước chủ trương chấn hưng tục lệ, thôn ta là nơi văn vật, gặp lúc vận may, xây dựng một bản điều ước tốt đẹp cho dân làng há không phải là điều nên làm hay sao! Sưu tầm ước cũ, thể tất nhân tình, chọn lọc những gì còn thích hợp, bổ sung những gì cần thêm, sao cho hợp thời này. Sau này sẽ có người góp đầy đủ hơn những gì thấy cần thiết. Dưới đây là những điều cụ thể:
Điều 1: Lễ Nguyên Đán tháng giêng, Lễ Đản sinh ở chùa Thiên Độ tháng tư, Lễ Đoan Ngọ tháng năm dùng hương trà, trầu rượu, Lễ khai hạ tháng Giêng, Lễ cầu phúc tháng ba. Lễ Thượng Điền tháng tám, tế Tiên nông tháng mười, Lễ Thường Tân tháng chạp dùng xôi thịt trầu rượu. Mỗi suất đóng góp một tiền.
Điều 2: Bố trí chỗ ngồi như sau: văn, võ, trưởng đội, trưởng ngũ, phụ lão trên 70 tuổi ngồi giữa đình; phụ lão từ 60 tuổi trở lên lý dịch ngồi bên trái; phụ lão 50 tuổi trở lên, biền binh ngồi phía bên phải; còn lại theo tuổi tác xếp ngồi sau là hai bên lý dịch, biền binh. Ai ngồi lộn xộn, ăn nói lung tung thì phạt tiền một quan mốt. Lỗi nặng hơn phải gia phạt nhiều hơn.
Điều 3: Tế xong, thủ và 2 mâm tế thần đem biếu thần sắc và các cụ từ 80 tuổi trở lên, nọng chia làm 2 phần, một phần cùng vói cỗ tế thần biếu các cụ 70 tuổi trở lên và tân cựu chánh phó tổng; một phần nọng biếu các cụ từ 60 tuổi trở lên và tân cựu lý trưởng, tân cựu binh; một miếng thịt vai (dài 4 tấc rộng 1 tấc rưỡi) biếu dương thứ chức dịch; một cỗ tế thần, một dĩa xôi biếu thủ chỉ; thịt biếu chủ tế; một cỗ xôi và phần còn lại của các cỗ tế thần biếu các người hành lễ. Mỡ của vật tế thần đem đốt.
Điều 4: Ngồi mâm: Cứ bốn người một mâm, bàn trên cũng như bàn dưới.
Điều 5: Thi hương, thi hội, trong làng có ai trúng tuyển khi có thư mừng báo tin, thì nổi trống đình để mọi người biết. Ngày vinh quy thì kỳ lão, lý dịch cờ trống nghênh tiếp. Tú tài thì đón ở đầu làng, Cử nhân, phó bảng thì rước từ điểm Yên Quỳnh. Được ân tứ Tiến sĩ xuất thân, cập đệ thì rước từ địa phận Bèo Hậu. Đối với quan võ có sắc phong thì tổ chức đón tiếp gần xa, từ đâu cũng lấy mốc phía bên quan văn làm chuẩn.
Điều 6: Nam nữ đến tuổi lấy vợ lấy chồng, muốn lập gia thất thì chủ hôn đem lễ lạt đến đình gồm tiền và cau rượu để nạp. Người trong làng thì nạp một quan tiền và trầu rượu, người trong xã thì nạp 1 quan 2 và trầu rượu; người trong tổng thì nạp 2 quan 4 và trầu rượu; người trong tỉnh hay khác tỉnh thì nạp 6 quan tiền và trầu rượu. Tuy vậy, còn tuỳ giàu nghèo, sang hèn mà châm chước sao cho thoả đáng.
Điều 7: Phụ nữ hoang dâm bị phát giác: nếu là con gái chưa chồng thì phạt tiền 20 quan và cạo đầu, cha mẹ cũng bị phạt ba quan. Sau khi đẻ con được 100 ngày, người con gái hoang dâm đó còn bị phạt 30 roi. Người đàn ông thông dâm cũng bị phạt 3 quan tiền và 50 roi. Ngoài ra còn phải bảo dưỡng người con gái cho đến kỳ sinh con và phải nhận nuôi đứa con. Người con gái hoang thai trở về nhà cha mẹ đẻ. Phụ nữ goá chồng phạm hoang dâm cũng bị trừng phạt 14 quan tiền. Tiên dâm hậu phú thì phạt 4 quan, trai gái đều bị đánh 30 roi. Cha mẹ đôi bên đều bị phạt tiền ba quan. Trường hợp loạn luân hay tái phạm thì hình phạt sẽ nặng hơn.
Điều 8: “Hương đảng mặc như xỉ”, trong làng xã tuổi tác là hơn hết. Gần đây đã có ý thức về việc này trong yến ẩm nhưng chưa quy định thành thể lệ. Làng đã định rằng cứ ba năm khai tịch một lần vào tháng giêng. Từ nay phải lấy tuổi tác hơn kém mà quy định trật tự ăn ngồi: 80 tuổi trở lên mỗi cụ một cỗ; 70 tuổi trở lên 2 cụ một cỗ; 60 tuổi trở lên 3 cụ một cỗ. Đối với khoa bảng thì Tiến sỹ, phó bảng ngang ngang cụ 90 tuổi, cử nhân ngang cụ 80 tuổi, tú tài ngang cụ 70 tuổi. Có phẩm hàm như bá hộ cùng cai phó tổng xem ngang 60 tuổi. Tất cả những vị trên đây xếp ngồi giữa đình. Từ 50 tuổi trở lên xếp ngồi hai bên tả hữu theo thứ tự tuổi tác. Những người có trách nhiệm trong thôn phải khăn áo chỉnh tề đem trầu rượu vào nhà rước các cụ ra đình và sắp xếp chỗ ngồi theo thứ tự để hành lễ. Khoa bảng và các cụ cao tuổi nhất là chính yếu để cùng nâng chén và thưởng thức ca hát suốt ngày. Các cụ ra về thì chấp sự đưa chân ra tận cổng đình. Việc này hệ trọng không được sơ suất
Điều 9: Các cụ đến tuổi 60, 70 tổ chức mừng thọ tại đình. Tiệc mừng xong các lý dịch và người cao tuổi khăn áo chỉnh tề, đem trầu rượu tiễn chân các cụ về tới nhà. Các cụ đến 80, 90 tuổi ăn mừng thì khi đưa đón phải có lọng xanh và võng đến cáng để biểu thị lòng tôn kính đối với tuổi tác và chức tước, nêu gương đẹp trong làng.
Điều 10: Trong thôn, làng ai có công khai khẩn đất hoang, trồng cây cối thì toàn quyền sử dụng. Người khác không được tự động chặt phá. Nếu xẩy ra trộm cắp thì dù chỉ một quả cây, một nhánh cây, nắm lá, bị tài chủ khiếu nại cũng chịu phạt xuy 30 roi, nạp 3 quan tiền và trả lại tất cả những gì đã lấy cắp.
Điều 11: Lấy thánh huấn 10 điều răn dạy. Nếu vi phạm thì bị tránh phạt: Phạm tội trộm cắp thì bị lý dịch gọi đến, có mặt người mất của. Đôi bên khai báo, người lấy trộm phải trả lại cho tài chủ những gì đã lấy cắp, chịu hình phạt tiền 3 quan, đánh roi 3 chục. Cha mẹ còn sống cũng bị phạt tiền 1 quan mốt về tội không biết dạy con. Phạm tội cờ bạc, rượu chè, ăn nói hỗn xược cũng bị phạt tiền 1 quan mốt, phạt roi ba chục. Trường hợp đôi bên tranh kiện thì trước hết lý trưởng phán xét. Nếu không xong thì đưa ra đình làng để viên chức, phụ lão phân giải. Nếu vẫn không xong thì mới đưa đến cửa quan. Đến công môn vẫn gặp rắc rối, bế tắc có làm phiền đến thôn làng thì cả đôi bên đều bị phạt tiền 6 quan. Nếu còn tiếp tục rắc rối nữa thì phạt nặng hơn.
Hương ước soạn năm Thiệu Trị thứ 4 (1844)
Cử nhân Trần Đình Diệp cùng viên chức
Danh sách liệt sỹ
1. Liệt sỹ chống Pháp:
TT |
Họ và tên |
Năm sinh |
Ngày nhập ngũ |
Ngày hy sinh |
Địa chỉ |
1 |
Trần Đăng Cảo |
|
8/7/1949 |
8/3/1954 |
Tân Hùng |
2 |
Nguyễn Văn Thoàn |
15/1/1929 |
7/1947 |
12/7/1951 |
Tân Hương |
3 |
Nguyễn Duy Trọn |
1929 |
1952 |
14/4/1954 |
Tân Hương |
4 |
Hồ Sỹ Viêng |
1923 |
1946 |
1947 |
Tân Sơn |
5 |
Nguyễn Bá Dược |
1923 |
1950 |
30/12/1952 |
Nam Mỹ |
6 |
Nguyễn Bá Biền |
1922 |
12/9/1947 |
31/03/1954 |
Nam Mỹ |
7 |
Hồ Văn Tháo |
1914 |
|
4/6/1948 |
Thịnh Mỹ |
8 |
Đậu Huy Thuý |
1928 |
|
14/5/1952 |
Thịnh Mỹ |
9 |
Văn Sĩ Thứ |
1922 |
1952 |
20/10/1953 |
An Thịnh |
2. Liệt sỹ chống Mỹ và bảo vệ biên giới |
TT |
Họ và tên |
Năm sinh |
Ngày nhập ngũ |
Ngày hy sinh |
Địa chỉ |
1 |
Huỳnh Thái Cao |
|
|
2/1/1967 |
Tân Thành |
2 |
Đặng Ngọc Thanh |
10/6/1967 |
10/1965 |
30/5/1968 |
Tân Hùng |
3 |
Phan Ngọc Đức |
28/3/1952 |
6/1972 |
8/9/1972 |
Tân Hùng |
4 |
Vũ Lê Bình |
18/4/1952 |
12/1971 |
3/1/1973 |
Tân Hùng |
5 |
Phạm Văn Tuyển |
1949 |
7/1967 |
2/7/1970 |
Tân Hùng |
6 |
Nguyễn Bá Nhẫn |
11/14/1945 |
28/2/1964 |
19/4/1968 |
Tân Hương |
7 |
Nguyễn Văn Tứ |
1952 |
4/1970 |
11/5/1971 |
Tân Hương |
8 |
Trần Ngọc Nhân |
1945 |
12/1965 |
27/1/1968 |
Tân Tiến |
9 |
Phạm Ngọc Cho |
1936 |
3/1959 |
4/5/1968 |
Bắc Mỹ |
10 |
Phạm Do |
1944 |
1966 |
18/6/1968 |
Tân Tiến |
11 |
Phạm Ngọc Xuân |
1948 |
2/1968 |
14/9/1969 |
Tân Tiến |
12 |
Nguyễn Bá Lộc |
1947 |
6/1968 |
11/5/1972 |
Bắc Mỹ |
13 |
Phạm Huy Hộ |
|
|
30/9/1967 |
Tân Tiến |
14 |
Nguyễn Bá Đại |
1952 |
6/1970 |
2/5/1972 |
Tân Sơn |
15 |
Nguyễn Duy Sách |
1932 |
|
11/9/1972 |
Tân Sơn |
16 |
Nguyễn Viết Bằng |
10/11/1956 |
10/1974 |
18/4/1975 |
Tân Sơn |
17 |
H ồ Sỹ Khuýnh |
1944 |
2/1964 |
18/5/1967 |
Tân Sơn |
18 |
Nguyễn Công Điểm |
1946 |
2/1965 |
11/6/1968 |
Bắc Mỹ |
19 |
Nguyễn Bá Lơm |
1943 |
2/1968 |
20/8/1968 |
Bắc Mỹ |
20 |
Nguyễn Bá Hinh |
1944 |
2/1963 |
29/11/1968 |
Bắc Mỹ |
21 |
Phạm Văn Sang |
1940 |
8/1967 |
6/8/1970 |
Bắc Mỹ |
22 |
Nguyễn Bá Bỉnh |
1937 |
3/1959 |
15/12/1971 |
Bắc Mỹ |
23 |
Nguyễn Bá Dong |
1944 |
2/1964 |
10/6/1972 |
Nam Mỹ |
24 |
Nguyễn Xuân Xuyên |
1950 |
4/1970 |
15/7/1972 |
Nam Mỹ |
25 |
Nguyễn Bá Liên |
1953 |
19/5/1971 |
31/12/1972 |
Nam Mỹ |
26 |
Trần Đình Tha |
1952 |
1/1979 |
12/3/1975 |
Nam Mỹ |
27 |
Nguyễn Hồng Dụ |
30/4/1943 |
22/9/1962 |
2/8/1966 |
Nam Mỹ |
28 |
Phan Đức Chuyên |
1942 |
1961 |
5/3/1967 |
Tân Phong |
29 |
Nguyễn Thị Bưởi |
1946 |
|
27/7/1967 |
Tân Phong |
30 |
Văn Sỹ Bảo |
1947 |
2/1968 |
3/2/1972 |
Tân Phong |
31 |
Đậu Đức Thịnh |
1949 |
3/1968 |
28/12/1970 |
Tân Phong |
32 |
Đậu Đức Lâm |
1951 |
9/1971 |
6/4/1972 |
Tân Phong |
33 |
Nguyễn Văn Thiêu |
1951 |
12/1968 |
25/10/1972 |
Tân Phong |
34 |
Phan Đức Huấn |
10/1953 |
2/1971 |
13/11/1972 |
Tân Phong |
35 |
Nguyễn Bá Lục |
1945 |
7/1965 |
2/1/1973 |
Tân Phong |
36 |
Nguyễn Viết Thịnh |
10/5/1941 |
5/10/1963 |
17/7/1966 |
An Thịnh |
37 |
Hồ Sỹ Tiệp |
1927 |
1956 |
11/10/1966 |
An Thịnh |
38 |
Hồ Sỹ Tơng |
1942 |
6/1961 |
10/5/1968 |
An Thịnh |
39 |
Nguyễn Văn Khoan |
1949 |
06/1968 |
1/12/1968 |
An Thịnh |
40 |
Văn Sỹ Bảo |
|
10/1/1963 |
23/3/1969 |
An Thịnh |
41 |
Nguyễn Bá Cư |
12/9/1945 |
29/2/1964 |
22/5/1969 |
An Thịnh |
42 |
Hồ Sỹ Linh |
1948 |
2/1968 |
17/7/1969 |
An Thịnh |
43 |
Lê Công Trình |
1948 |
12/3/1965 |
15/10/1969 |
An Thịnh |
44 |
Nguyễn Bá Tân |
1949 |
1968 |
7/1/1970 |
An Thịnh |
45 |
Mai Xuân Ninh |
1948 |
12/1967 |
12/2/1970 |
An Thịnh |
46 |
Nguyễn Văn Muồng |
1946 |
2/1968 |
15/3/1970 |
An Thịnh |
47 |
Đậu Đức Việt |
1950 |
2/1968 |
9/6/1970 |
An Thịnh |
48 |
Lưu Yên Tương |
1949 |
12/1969 |
11/6/1971 |
An Thịnh |
49 |
Đậu Đức Quyết |
1953 |
1/1971 |
12/12/1972 |
An Thịnh |
50 |
Lê Thị Hoa |
1955 |
|
17/3/1972 |
An Thịnh |
51 |
Đậu Đức Vinh |
1944 |
1963 |
22/3/1972 |
An Thịnh |
52 |
Nguyễn Xuân Xứ |
1950 |
4/1970 |
1/4/1972 |
An Thịnh |
53 |
Nguyễn Bá Sơn |
1946 |
12/1967 |
11/6/1968 |
An Thịnh |
54 |
Nguyễn Viết Việng |
1931 |
|
6/10/1966 |
Thịnh Mỹ |
55 |
Đậu Huy Vũ |
1924 |
1/8/1950 |
25/12/1967 |
Thịnh Mỹ |
56 |
Nguyễn Bá Quế |
1948 |
7/1967 |
6/6/1969 |
Thịnh Mỹ |
57 |
Nguyễn Duy Yêng |
9/1948 |
12/1970 |
26/9/1972 |
Thịnh Mỹ |
58 |
Trần Ngọc Trình |
1950 |
12/1969 |
29/4/1975 |
Thịnh Mỹ |
59 |
Lê Công Nhuỵ |
1942 |
2/1963 |
11/2/1965 |
Nam Mỹ |
60 |
Nguyễn Văn Luận |
1946 |
2/12/1965 |
15/1/1969 |
Nam Mỹ |
61 |
Nguyễn Duy Nhân |
1948 |
2/1968 |
16/8/1973 |
Tân Hương |
62 |
Nguyễn Bá Chu |
9/2/1927 |
|
5/6/1967 |
Tân Sơn |
63 |
Nguyễn Văn Hy |
1945 |
|
9/6/1968 |
Thịnh Mỹ |
64 |
Nguyễn Viết Hùng |
1960 |
1978 |
30/8/1988 |
Tân Hùng |
65 |
Nguyễn Bá Hoà |
1937 |
9/1962 |
0/6/1977 |
Bắc Mỹ |
66 |
Lê Trọng Lâm |
1966 |
2/1984 |
20/3/1985 |
Tân Hùng |
67 |
Lê Khắc Hồng |
11/1955 |
2/1973 |
16/3/1979 |
Tân Hùng |
68 |
Nguyễn Văn Sơn |
9/1964 |
8/3/183 |
7/4/1984 |
Tân Hùng |
69 |
Nguyễn Văn Minh |
1957 |
8/1976 |
26/4/1978 |
Nam Mỹ |
70 |
Nguyễn Bá Nhan |
1955 |
2/1973 |
7/9/1978 |
Bắc Mỹ |
71 |
Nguyễn Viết Phượng |
1958 |
8/1976 |
23/5/1978 |
An Thịnh |
72 |
Nguyễn Viết Sung |
1956 |
8/1976 |
2/6/1978 |
Nam Mỹ |
73 |
Trần Đình Luân |
10/1958 |
8/1976 |
28/4/1978 |
Tân Tiến |
Bà mẹ Việt Nam anh Hùng
1. Trần Thị Vỵ: có 2 con, cả 2 con là liệt sỹ.
2. Nguyễn Thị Thung: có một con trai duy nhất là liệt sỹ.
cán bộ Lão thành cách mạng:
1. Văn Sỹ Thọ, Sinh năm 1913
2. Nguyễn Bá Nghiêm, Sinh năm 1909
Cán bộ tiền khởi nghĩa:
1. Phạm Văn Đàn, Sinh năm 1923
2. Nguyễn Bá Vựng, Sinh năm 1927
* Số người tham gia quân đội: 645 người
- Chống Pháp: 56 người
- Chống Mỹ và bảo vệ biên giới (từ 1980 trở về trước): 589 người.
* Tham gia thanh niên xung phong: 80 người
- Chống Pháp: 22 người
- Chống Mỹ: 28 người
- Xây dựng xã hội chủ nghĩa: 14 người
* Thương bệnh binh các loại:
- Thương binh: 80 người
Trong đó: Loại 1: 3 người, Loại 2: 3 người, Loại 3: 6 người, Loại 4: 68 người
- Bệnh binh: 38 người
Trong đó: Loại 2/3: 32 người, Loại 3/3: 6 người.
- Bị nhiễm chất độc màu da cam: 17 người
Trong đó: Người hoạt động bị nhiễm 5 người
Con của những người hoạt động 12 người.
* Huân, Huy chương các loại:
- Huy chương chống Pháp: 83 người
Trong đó: Hạng Nhất: 32 người, hạng Nhì: 51 người
- Huân chương chống Mỹ: 259 người
Trong đó: Hạng Nhất: 64 người, hạng Nhì: 93 người, hạng Ba: 102 người.
- Huy chương chống Mỹ: 237 người
Trong đó: Hạng Nhất: 125 người, Hạng Nhì: 112 người
Tổng Huân, Huy chương các loại: 597 người
-Huy chương Kháng chiến: 362 gia đình
Cán bộ chủ chốt đảng qua các thời kỳ
Kỳ đại hội |
Thời gian |
Bí thư |
Trực Đảng |
Nội dung |
Tên xã |
|
8/1945 |
|
|
|
Thiện Kỵ |
|
1946 |
Nguyễn Bá Nghiêm
|
|
|
Văn Hoá (Q.Dị-Q.Thiện) |
|
1947 |
Nguyễn Bá Nghiêm
|
|
|
Vinh Hoa (Q.Thiện-Q.Vinh-Q.Dị) |
|
1948 |
Nguyễn Tượu |
|
|
Quỳnh Mai |
|
1949
- 1951 |
Nguyễn Tượu |
Nguyễn Bá Mãn
(từ 1/1951) |
|
Quỳnh Mai |
|
1/1952
10/1952 |
Nguyễn Huấn
Nguyễn Kiên
|
Nguyễn Bá Mãn
Nguyễn Kiên
|
|
Quỳnh Mai |
|
11/1952
-3/1954 |
Nguyễn Tượu |
Nguyễn Bá Hưng |
|
Quỳnh Mai |
|
4/1954-3/1955 |
Trần Tiềm |
Nguyễn Bá Hưng |
Học tập và tiến hành giảm tô, giảm tức. Học tập chuẩn bị bước vào cải cách ruộng đất. |
Quỳnh Thiện |
|
4/1955
-10/1956 |
Hoàng Thị Tơn
đến 12/1955
Nguyễn Bá Thóng
Từ 01/1956 |
Đậu Phi Hán |
Tiến hành cải cách ruộng đất, xây dựng tổ đổi công, xây dựng nông thôn mới. |
Quỳnh Thiện |
|
11/1956
-12/1959 |
Nguyễn Bá Thóng đến 1/1958,
Nguyễn Viết Dữ
từ 02/1958 |
Nguyễn Bá Hưng |
Học tập thư Bác Hồ, sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất, xây dựng khối đoàn kết trong nông thôn, học tập Điều lệ (sửa đổi) hợp tác hoá nông nghiệp. |
Quỳnh Thiện |
|
1/1960
-3/1961 |
Nguyễn Viết Dữ |
Nguyễn Viết Thực |
Xây dựng HTX nông nghiệp, quán triệt NQ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 3, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ nhất. |
Quỳnh Thiện |
I |
4/1961
-3/1962 |
Nguyễn Bá Vựng |
|
Tiến hành xây dựng HTX bậc cao, thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. |
Quỳnh Thiện |
II |
4/1962
-2/1963 |
Nguyễn Bá Vựng |
Phan Đức Duật |
Tiếp tục hoàn thiện quy hoạch sản xuất XHCN, đưa 100% số hộ vào HTX, tiến hành xây dựng HTX quy mô lớn. |
Quỳnh Thiện |
III |
3/1963
-5/1965 |
Nguyễn Bá Vựng |
Mai Xơng |
Tiếp tục hoàn thiện quy hoạch sản xuất XHCN, đưa 100% số hộ vào HTX, tiến hành xây dựng HTX quy mô lớn. |
Quỳnh Thiện |
IV |
5/1965
-3/1966 |
Nguyễn Bá Vựng |
Nguyễn Viết
Ngoan |
Bảo vệ miền Bắc, chuyển dân đi các nơi, tập trung vùng Bắc Thắng, sơ tán các lớp học, chi viện cho miền Nam. |
Quỳnh Thiện |
V |
3/1966
-8/1967 |
Mai Xơng |
|
Đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ; dời dân; đẩy mạnh sản xuất; đảm bảo giao thông |
Quỳnh Thiện |
VI |
8/1967
-11/1969 |
Nguyễn Ngọc Cẩn |
|
Đảm bảo sản xuất, đảm bảo giao thông chi viện cho chiến trường; đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. |
Quỳnh Thiện |
VII |
11/1969
-4/1971 |
Nguyễn Ngọc Cẩn |
|
Tranh thủ đế quốc Mỹ ngừng ném bom miền Bắc, đẩy mạnh việc xây dựng bờ vùng, bờ thửa, san lấp hố bom. |
Quỳnh Thiện |
VIII |
4/1971
-3/1972 |
Nguyễn Ngọc Cẩn |
Phan Đức Duật |
Tranh thủ đế quốc Mỹ ngừng ném bom miền Bắc, đẩy mạnh việc xây dựng bờ vùng, bờ thửa, san lấp hố bom. Đẩy mạnh sản xuất, quyết tâm đưa năng suất lúa đạt 5tấn/ha và 2 con lợn/ha gieo trồng; củng cố lực lượng kịp thời đánh trả chiến tranh leo thang lần 2 của đế quốc Mỹ. |
Quỳnh Thiện |
IX |
3/1972
-9/1973 |
Nguyễn Bá Vựng |
Phan Đức Duật |
Đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2, xây dựng công trình “công trình lương tâm” của huyện ở Quỳnh Châu; chi viện nhiều nhất sức người, của cho miền Nam. |
Quỳnh Thiện |
X |
9/1973
-6/1974 |
Nguyễn Bá Vựng |
Nguyễn Bá Doãn |
Hàn gắn vết thương chiến tranh, cùng với huyện mở các chiến dịch Bắc Quảng Trị, Đông Hà, Cửa Việt, san lấp đồng ruộng, mở các đồng muối. |
Quỳnh Thiện |
XI |
6/1974
-5/1975 |
Phan Thanh Đắc |
Nguyễn Bá Doãn |
Chi viện sức người cho miền Nam, củng cố HTX, đẩy mạnh sản xuất. |
Quỳnh Thiện |
XII |
5/1975
-5/1976 |
Phan Thanh Đắc |
Nguyễn Bá Doãn |
Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Quỳnh Lưu được TW phê chuẩn tổ chức lại sản xuất, học tập tư tưởng, xây dựng cụm sản xuất. |
Quỳnh Thiện |
XIII |
5/1976
-1978
nhập xã |
Trần Luân |
Trần Hanh |
Hợp nhất ba xã thành xã Quỳnh Mai, tiến hành tổ chức lại sản xuất. |
Quỳnh Mai |
XIV |
1979
-9/1981 |
Phan Thanh Đắc |
Trần Hanh |
Tổ chức lại sản xuất, thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư ngày 15/1/1981; mở đầu cho bước phát triển mới ở nông thôn nông nghiệp, tiến hành chia xí nghiệp, chia xã. |
|
XV |
9/1981
-10/1982
tách xã |
Nguyễn Bá Doãn |
Nguyễn Viết Hữu |
Giải quyết những tồn đọng trong thời kỳ phân chia xí nghiệp; ổn định tình hình |
Quỳnh Thiện |
XVI |
10/1982
-9/1985 |
Nguyễn Bá Doãn |
Nguyễn Viết Hữu đến 3/1984,
Nguyễn Thái Sơn, Nguyễn Bá ổn từ 4/1984 |
Thực hiện khoán gọn, tiến tới thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị giao đất nông nghiệp cho nông dân |
Quỳnh Thiện |
XVII |
9/1985
-11/1987 |
Phan Đức Chuôn |
Nguyễn Hồng Tởn đến tháng 6-1987
Nguyễn Tiến Cường từ tháng 7-11/1987 |
Giao đất, giao rừng, đảm bảo an ninh quốc phòng, nâng cao đời sống cho người dân lao động. |
Quỳnh Thiện |
XVIII |
11/1987
-9/1991 |
Nguyễn Bá Hùng |
Nguyễn Thị Vinh |
Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước |
Quỳnh Thiện |
XIX |
9/1991
-11/1994 |
Đậu Đức Long |
Trần Quang
Nguyễn Bá Thọ |
Tập trung phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, cải thiện đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân |
Quỳnh Thiện |
XX |
11/1994
-1/1996 |
Đậu Phi Nính |
Nguyễn Duy Nguyên |
Thực hiện Nghị định 64/CP về giao đất sản xuất 20 năm cho nhân dân và đẩy mạnh phát triển kinh tế |
Quỳnh Thiện |
XI |
1/1996
-9/2000 |
Đậu Phi Nính |
Nguyễn Bá Huy |
Tập trung phát triển kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng địa phương. |
Quỳnh Thiện |
XXII |
9/2000
-6/2005 |
Nguyễn Bá Huy
đến 4/2004
Nguyễn Bá Sự
từ 4/2004 |
Nguyễn Bá Sự
đến 4/2004
Đậu Đức Long
từ 5/2004 |
Tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng địa phương, thực hiện mục tiêu CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn |
Quỳnh Thiện |
XXIII |
6/2005
-2010 |
Nguyễn Bá Sự |
Nguyễn Bá Hào |
Tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng địa phương, phát triển kinh tế, chú trọng lĩnh vực CN-TTCN. Ngày 21-4-2006, Chính phủ có Nghị định thành lập thị trấn Hoàng Mai. |
Thị trấn Hoàng Mai |
Cán bộ chính quyền qua các thời kỳ
Khoá |
Tháng năm |
Chủ tịch UBND |
Phó chủ tịch
UBND |
Tên xã |
|
8/1945-3/1946 |
Đậu Phi Tuy |
Nguyễn Bá Thuận |
Thiện Kỵ |
|
4/1946-12/1946 |
Đậu Phi Tuy Nguyễn Bá Thuận |
Hồ Mưu, Hồ Sỹ Kế |
Văn Hoá (Q.Dị-Q.Thiện) |
|
1947 |
Nguyễn Bá Mởn
|
Nguyễn An Thoà |
Vinh Hoa (Q.Thiện--Q.Dị, Thọ Vinh, Quý Vinh) |
|
1948 |
Nguyễn bá Hiềng |
Nguyễn Quang Duy
|
Quỳnh Mai (Q.Thiện, Dị, Vinh, Hợp, Kim, Trang) |
|
1949 |
Đậu Phi Duyên |
Nguyễn Bá Mậu
|
Quỳnh Mai |
|
1950 - 4/1952 |
Hồ Mưu
Nguyễn Bá Thóng |
Nguyễn Bá Mậu – Mai Trường Khánh |
Quỳnh Mai |
|
5/1952 -3/1954 |
Trần Lưu
|
Nguyễn Bá Mậu
Mai Trường Khánh
Nguyễn Thị Danh |
Quỳnh Mai |
|
4/ 1954-3/1955 |
Trần Tiềm
Nguyễn Duy Khính |
Võ Đăng Kịch (đến tháng 7/1954)
Nguyễn Bá Thóng (tháng 8/1954) |
Quỳnh Thiện |
|
4/1955 - 9/1957 |
Nguyễn Duy Viễn |
Trần Oanh |
Quỳnh Thiện |
|
9/ 1957-6/1961 |
Nguyễn Viết Hườu |
Nguyễn Duy Viễn
Hồ Sỹ Tiệp |
Quỳnh Thiện |
|
7/ 1961-2/1963 |
Nguyễn Viết Dữ |
Nguyễn Viết Thực |
Quỳnh Thiện |
|
3/ 1963-8/1964 |
Phan Đức Duật |
Phan Đức Chuôn |
Quỳnh Thiện |
|
8/ 1964-1/1965 |
Bùi Thị Đào |
Hoàng Đạt |
Quỳnh Thiện |
|
1/ 1965-3/1966 |
Mai Xơng |
Nguyễn Bá Lạng |
Quỳnh Thiện |
|
4/ 1966-8/1967 |
Mai Xơng |
Nguyễn Bá Lạng đến 11/1966
Nguyễn Hồng Tởn từ 12/1966 |
Quỳnh Thiện |
|
9/1967-11/1969 |
Mai Xơng |
Nguyễn Viết Ngoan
Nguyễn Thị Minh |
Quỳnh Thiện |
|
12/1969-4/1971 |
Nguyễn Thị Minh |
Phan Đức Tạo
Nguyễn Hồng Tởn |
Quỳnh Thiện |
|
5/ I971-3/1973 |
Phan Thanh Đắc |
Nguyễn Bá Túa |
Quỳnh Thiện |
|
4/ 1973-4/1975 |
Võ Thị Định |
Nguyễn Bá Túa |
Quỳnh Thiện |
|
5/ 1975-5/1976 |
Nguyễn Bá Thái |
Nguyễn Bá Túa |
Quỳnh Thiện |
|
5/1976-12/1978
Nhập xã |
Hồ Nuỵ |
Nguyễn Bá Thái
Lê Thạc Trường |
Quỳnh Mai (Q.Thiện, Dị, Vinh)
Hội đồng 3 xã để bầu UBND |
|
1/ 979-9/1981 |
Hồ Nuỵ
Trần Hanh |
Lê Thạc Trường |
Quỳnh Mai (Q.Thiện, Dị, Vinh)
Khoá 3 Trần Hanh làm chủ tịch |
|
9/1981-12/1983
Tách xã |
Nguyễn Bá Túa |
Nguyễn Viết Quang |
Quỳnh Thiện |
|
1/1984-6/1987 |
Nguyễn Tiến Cường |
Nguyễn Văn Việt |
Quỳnh Thiện |
|
7/1987-12/1988 |
Nguyễn Bá Túa
Nguyễn Văn Việt |
Nguyễn Văn Việt
Trần Quang |
Quỳnh Thiện |
|
1/1989-11/1994 |
Nguyễn Văn Việt |
Nguyễn Bá Hương, sau đó Nguyễn Bá Hương quyền chủ tịch UBND |
Quỳnh Thiện |
|
12/1994-12/1999 |
Đậu Đức Long |
Nguyễn Bá Hoành |
Quỳnh Thiện |
|
1/2000-4/2004 |
Đậu Đức Long |
Phan Đức Điểm |
Quỳnh Thiện |
|
5-2004/2011 |
Nguyễn Bá Huy |
Phan Đức Điểm
Phan Đức Nhuận |
Thị trấn Hoàng Mai |
Danh sách đảng viên được tặng huy hiệu đảng
(Đã mất)
TT |
Họ và tên |
Năm sinh |
Vào Đảng |
Chính thức |
Huy hiệu |
Chi bộ |
1 |
Đậu Huy Lợc |
22/11/1932 |
1/2/1961 |
8/3/1962 |
40 năm |
1 |
2 |
Trần Hiên |
5/8/1930 |
19/5/1949 |
19/11/1949 |
50 năm |
1 |
3 |
Đậu Xuân Hán |
15/8/1930 |
18/1/1950 |
20/10/1950 |
50 năm |
1 |
4 |
Văn Sỹ Thọ |
1913 |
|
|
|
2 |
5 |
Nguyễn Viết Rài |
12/4/1925 |
2/3/1961 |
2/3/1962 |
40 năm |
2 |
6 |
Nguyễn Viết Chiến |
12/1/1925 |
12/2/1963 |
12/2/1964 |
40 năm |
2 |
7 |
Nguyễn Bá Mãn |
10/10/1926 |
4/2/1947 |
4/8/1947 |
50 năm |
2 |
8 |
Nguyễn Văn Hơn |
16/9/1914 |
22/8/1948 |
22/5/1949 |
50 năm |
3 |
9 |
Nguyễn Viết Ký |
3/3/1930 |
1/1/1963 |
18/3/1964 |
40 năm |
3 |
10 |
Nguyễn Bá Nghiêm |
1910 |
1944 |
1994 |
|
4 |
11 |
Vũ Thị Viên |
11/4/1926 |
24/07/1948 |
24/10/1948 |
50 năm |
4 |
12 |
Nguyễn Bá Hưng |
20/5/1943 |
14/11/1948 |
14/3/1949 |
50 năm |
4 |
13 |
NguyễnDuy Trường |
10/1/1919 |
3/2/1960 |
3/2/1961 |
40 năm |
5 |
14 |
Nguyễn Văn Chất |
20/10/1938 |
13/9/1962 |
13/9/1963 |
40 năm |
5 |
15 |
Trần Khuyên |
3/2/1917 |
30/1/1950 |
20/7/1950 |
40 năm |
5 |
16 |
Trần Mạnh Uyên |
1/4/1919 |
2/11/1948 |
2/2/1949 |
50 năm |
6 |
17 |
Nguyễn Ngọc Cẩn |
|
10/1/1960 |
10/1/1961 |
40 năm |
7 |
18 |
Nguyễn Bá Vựng |
5/5/1926 |
5/11/1949 |
10/5/1950 |
50 năm |
7 |
19 |
Đậu Thị Miệu |
7/8/1927 |
31/1/1949 |
5/6/1949 |
50 năm |
7 |
20 |
Phạm Huấn |
2/2/1924 |
1/2/1955 |
1/5/1955 |
40 năm |
7 |
21 |
Trần Tứ |
21/1/1920 |
2/8/1947 |
12/2/1948 |
50 năm |
8 |
22 |
Lê Thế Phiệt |
20/10/1942 |
11/3/1963 |
11/1/1964 |
40 năm |
9 |
23 |
Lê Khắc Thương |
4/4/1921 |
6/4/1948 |
13/7/1948 |
50 năm |
9 |
24 |
Huỳnh Anh |
6/2/1919 |
6/2/1950 |
6/3/1951 |
50 năm |
9 |
25 |
Nguyễn Bá Thái |
6/10/1927 |
6/7/1950 |
9/1/1955 |
50 năm |
7 |
26 |
Đậu Thị Xin |
15/6/1931 |
3/4/1955 |
30/9/1955 |
50 năm |
7 |
27 |
Nguyễn Văn Tính |
1943 |
29/11/1972 |
29/8/1973 |
30 năm |
5 |
Danh sách đảng viên được tặng huy hiệu đảng
(Tính đến 30 tháng 12 năm 2007)
1- Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng:
TT |
Họ và tên |
Năm sinh |
Kết nạp |
Chính thức |
Chi bộ |
1 |
Nguyễn Thị Xuân Mai |
5/5/1929 |
24/4/1948 |
24/8/1948 |
1 |
2 |
Trần Đức Tiễm |
2/3/1918 |
2/4/1948 |
10/7/1948 |
6 |
3 |
Nguyễn Xuân Thụ |
20/2/1919 |
6/6/1948 |
6/12/1948 |
3 |
4 |
Trần Cươn |
15/5/1915 |
11/5/1948 |
12/11/1949 |
1 |
5 |
Nguyễn Thị Hựu |
2/3/1919 |
22/5/1950 |
20/10/1950 |
1 |
6 |
Hoàng Thị Tơn |
14/9/1921 |
12/4/1955 |
5/5/1956 |
1 |
7 |
Đậu Đức Thiện |
20/11/1927 |
20/11/1949 |
26/3/1950 |
2 |
8 |
Nguyễn Thị Lênh |
1/3/1928 |
14/10/1949 |
14/4/1950 |
2 |
9 |
Nguyễn Viết Triết |
10/10/1930 |
15/1/1950 |
13/6/1950 |
2 |
10 |
Nguyễn Duy Đăng |
3/7/1927 |
3/4/1949 |
5/9/1949 |
3 |
11 |
Võ Đăng Kịch |
10/10/1923 |
15/5/1950 |
20/10/1950 |
3 |
12 |
Đậu Đức Thi |
1/1/1935 |
5/5/1955 |
20/8/1956 |
3 |
13 |
Nguyễn Duy Hằng |
304/1924 |
6/10/1957 |
27/6/1958 |
3 |
14 |
Nguyễn Tiến Cường |
06/07/1930 |
21/01/1957 |
21/08/1957 |
3 |
15 |
Nguyễn Duy Viễn |
10/9/1913 |
12/2/1955 |
25/5/1955 |
7 |
2- Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng:
TT |
Họ và tên |
Năm sinh |
Vào Đảng |
Chính thức |
Chi bộ |
1 |
Đậu Huy Phượng |
1/10/1936 |
15/11/1960 |
27/9/1961 |
1 |
2 |
Trần Thăng |
4/3/1933 |
25/1/1960 |
18/10/1960 |
1 |
3 |
Đậu Huy Thuân |
19/12/1928 |
2/6/1962 |
2/5/1963 |
1 |
4 |
Trần Thị Quảng |
10/5/1936 |
3/5/1963 |
21/7/1964 |
1 |
5 |
Nguyễn Thế Dưỡng |
20/7/1940 |
7/2/1964 |
20/2/1965 |
1 |
6 |
Đậu Phi Lững |
20/10/1945 |
30/9/1965 |
4/11/1966 |
1 |
7 |
Nguyễn Thị Hành |
19/2/1948 |
16/1/1966 |
16/1/1967 |
1 |
8 |
NguyễnThị Khuyên |
10/6/1947 |
21/12/1965 |
12/3/1967 |
1 |
9 |
Đậu Phi Nính |
15/4/1942 |
1/5/1966 |
17/2/1967 |
1 |
10 |
Bùi Thị Đào |
1/5/1933 |
20/1/1961 |
20/1/1962 |
2 |
11 |
Nguyễn Bá Xân |
12/12/1936 |
12/12/1961 |
12/12/1962 |
2 |
12 |
Nguyễn Xuân Hệ |
1/4/1944 |
9/8/1965 |
6/3/1967 |
2 |
13 |
Đậu Đức Vê |
12/6/1948 |
13/7/1966 |
13/7/1967 |
2 |
14 |
Nguyễn Văn Khẩn |
8/8/1945 |
10/8/1966 |
10/8/1967 |
2 |
15 |
Nguyễn Bá Đợu |
15/10/1942 |
31/12/1966 |
31/12/1967 |
2 |
16 |
Văn Sỹ Miêng |
4/6/1933 |
27/10/1961 |
22/11/1962 |
3 |
17 |
Nguyễn Văn Hiệt |
9/10/1944 |
15/5/1963 |
15/5/1964 |
3 |
18 |
Nguyễn ái Khước |
20/10/1934 |
5/1/1964 |
11/1/1965 |
3 |
19 |
Văn Sỹ Bửu |
3/3/1939 |
16/3/1966 |
16/12/1966 |
3 |
20 |
Đậu Thị Đọn |
23/12/1943 |
25/3/1966 |
25/3/1967 |
3 |
21 |
Nguyễn Duy úc |
3/9/1934 |
7/10/1966 |
7/10/1967 |
3 |
22 |
Nguyễn Bá Hồng |
2/9/1942 |
26/10/1963 |
26/10/1964 |
4 |
23 |
Nguyễn Đình Lê |
19/4/1942 |
12/12/1965 |
12/12/1966 |
4 |
24 |
Nguyễn Thị Bảy |
17/7/1948 |
18/4/1966 |
18/04/1967 |
4 |
25 |
Nguyễn Bá Lạc |
19/8/1948 |
27/7/1966 |
27/7/1967 |
4 |
26 |
Nguyễn Bá Khoan |
10/5/1928 |
27/6/1966 |
27/6/1967 |
4 |
27 |
Nguyễn Bá Mậu |
13/6/1930 |
5/7/1963 |
5/7/1964 |
4 |
28 |
Phan Đức Chuôn |
14/12/1934 |
6/1/1960 |
9/6/1961 |
5 |
29 |
Nguyễn Thị Đợi |
16/10/1939 |
10/10/1962 |
20/10/1963 |
5 |
30 |
Nguyễn Thị Minh |
20/5/1941 |
20/10/1963 |
20/10/1964 |
5 |
31 |
Nguyễn Duy Lạng |
12/12/1940 |
2/3/1964 |
2/3/1965 |
5 |
32 |
Phan Đức Viễng |
24/7/1938 |
11/4/1964 |
11/1/1965 |
5 |
33 |
Võ Đăng Công |
13/2/1940 |
31/3/1965 |
31/3/1966 |
5 |
34 |
Nguyễn Văn Việt |
13/11/1948 |
26/6/1966 |
26/6/1967 |
5 |
35 |
Nguyễn Bá Hằng |
29/4/1936 |
25/1/1961 |
25/1/1962 |
6 |
36 |
Nguyễn Hồng Tởn |
12/12/1936 |
18/8/1964 |
18/8/1965 |
6 |
37 |
Nguyễn Duy Tuấn |
15/6/1940 |
16/5/1965 |
16/5/1966 |
6 |
38 |
Trần Đức Thiêm |
8/11/1930 |
25/4/1960 |
20/10/1960 |
6 |
39 |
Trần Đăng Thờng |
14/10/1936 |
25/1/1961 |
8/3/1962 |
7 |
40 |
Nguyễn Bá Túa |
20/5/1925 |
27/10/1961 |
22/11/1962 |
7 |
41 |
Nguyễn Bá Thịnh |
2/8/1928 |
27/10/1961 |
22/11/1962 |
7 |
42 |
Trần Đăng Thưởng |
12/7/1940 |
13/10/1962 |
26/10/1963 |
7 |
43 |
Nguyễn Duy Khang |
6/10/1945 |
31/03/1965 |
31/3/1966 |
7 |
44 |
Mai Văn Thọ |
26/5/1939 |
19/05/1963 |
19/5/1964 |
8 |
45 |
Mai Văn Mơn |
1/1/1933 |
08/01/1962 |
8/1/1963 |
8 |
46 |
Lê Hồng Loan |
6/12/1940 |
24/04/1963 |
7/3/1964 |
8 |
47 |
Nguyễn Đình Phái |
25/5/1945 |
07/06/196 |
26/6/1965 |
8 |
48 |
Vũ Lê Mãn |
25/10/1940 |
20/8/1964 |
19/10/1965 |
9 |
3- Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng:
TT |
Họ và tên |
Năm sinh |
Vào Đảng |
Chính thức |
Chi bộ |
1 |
Trần Ngọc Khoát |
1946 |
7/7/1967 |
7/4/1968 |
1 |
2 |
Nguyễn Thế Ngọ |
1944 |
21/4/1967 |
21/4/1968 |
9 |
3 |
Võ Thị Quý |
1947 |
26/5/1967 |
26/5/1968 |
4 |
4 |
Nguyễn Bá Doãn |
1947 |
25/5/1967 |
25/7/1968 |
7 |
5 |
Đặng Thị Hồng Loan |
1949 |
21/1/1967 |
21/8/1968 |
9 |
6 |
Nguyễn Thị Trúc |
1947 |
25/8/1967 |
25/8/1968 |
3 |
7 |
Nguyễn Văn Nhỡn |
1947 |
13/9/1967 |
13/9/1968 |
9 |
8 |
Lê Thanh Thuyết |
1945 |
29/9/1967 |
29/91968 |
2 |
9 |
Đinh Thị Lý |
1949 |
26/9/1967 |
5/10/1968 |
1 |
10 |
Nguyễn Hồng Hoà |
1946 |
25/10/1967 |
25/10/1968 |
8 |
11 |
Trần Tòng |
1930 |
25/10/1967 |
25/10/1968 |
5 |
12 |
Hoàng Quang Thịnh |
1954 |
3/4/1968 |
3/1/1969 |
8 |
13 |
Nguyễn Duy Trọng |
1944 |
24/4/1968 |
20/10/1969 |
2 |
14 |
Nguyễn Bá Đợu |
1943 |
1/5/1968 |
1/2/1969 |
3 |
15 |
Nguyễn Văn Nhãn |
1937 |
4/6/1968 |
3/2/1969 |
2 |
16 |
Nguyễn Thị In |
1947 |
1/3/1968 |
1/3/1969 |
6 |
17 |
Nguyễn Hằng Hoà |
1950 |
12/4/1968 |
12/4/1969 |
2 |
18 |
Vũ Văn Hữu |
1944 |
30/5/1968 |
30/5/1969 |
9 |
19 |
Nguyễn Bá Hùng |
1944 |
31/8/1968 |
31/5/1969 |
4 |
20 |
Nguyễn Thị Chung |
1948 |
1/6/1968 |
1/6/1969 |
6 |
21 |
Phạm Huy Toàn |
1947 |
24/6/1968 |
24/6/1969 |
10 |
22 |
Trần Nắng Hồng |
1948 |
20/10/1968 |
20/10/1969 |
4 |
23 |
Nguyễn Duy ân |
1949 |
19/10/1968 |
22/10/1969 |
3 |
24 |
Nguyễn Duy ấn |
1941 |
1/2/1969 |
4/12/1969 |
5 |
25 |
Nguyễn Bá Mậu |
1942 |
20/4/1969 |
20/1/1970 |
4 |
26 |
Đậu Xuân Vững |
1937 |
20/4/1969 |
20/1/1970 |
1 |
27 |
Nguyễn Văn Thoại |
1934 |
20/1/1969 |
24/1/1970 |
4 |
28 |
Đậu Phi Hoá |
1940 |
17/5/1969 |
17/2/1970 |
3 |
29 |
Phan Đức Trại |
1945 |
21/3/1969 |
21/3/1970 |
4 |
30 |
Nguyễn Hoài |
1947 |
14/6/1969 |
17/2/1970 |
2 |
31 |
Nguyễn Văn Hùng |
1950 |
29/9/1969 |
29/9/1970 |
2 |
32 |
Nguyễn Quốc Tuấn |
1936 |
20/1/1970 |
2/11/1970 |
3 |
33 |
Phan Đức Luân |
1945 |
15/2/1970 |
15/11/1970 |
3 |
34 |
Nguyễn Thị Dơng |
1950 |
26/1/1970 |
26/1/1971 |
7 |
35 |
Nguyễn Văn Hiển |
1940 |
27/3/1970 |
27/3/1971 |
8 |
36 |
Đào Thị Lộc |
1951 |
3/2/1971 |
4/2/1972 |
1 |
37 |
Nguyễn Thị Tài |
1948 |
10/2/1971 |
10/2/1972 |
4 |
38 |
Nguyễn Thị Hường |
1950 |
19/5/1971 |
20/2/1972 |
4 |
39 |
Đậu Đức Long |
1952 |
2/9/1971 |
2/9/1972 |
2 |
40 |
Đậu Phi Phiếm |
1950 |
24/9/1971 |
24/9/1972 |
1 |
41 |
Nguyễn Thị Mơ |
1949 |
27/11/1971 |
27/11/1972 |
8 |
42 |
Nguyễn Thị Hạnh |
1947 |
12/4/1972 |
12/1/1973 |
10 |
43 |
Hồ Trọng Hoằng |
1949 |
29/9/1972 |
29/6/1973 |
10 |
44 |
Đậu Đức Lý |
1952 |
27/7/1972 |
29/7/1973 |
8 |
45 |
Nguyễn Bá Tắc |
1951 |
29/9/1972 |
29/9/1973 |
6 |
46 |
Nguyễn Hữu Thoan |
1938 |
22/11/1972 |
22/11/1973 |
8 |
48 |
Nguyễn Bá Thìn |
1950 |
22/11/1972 |
22/11/1973 |
6 |
49 |
Hồ Xuân Hộ |
1951 |
19/6/1973 |
19/3/1974 |
Cơ quan |
50 |
Trần Xuân Hùng |
1953 |
19/7/1973 |
18/7/1974 |
10 |
51 |
Đậu Phi Thặng |
1948 |
1/8/1973 |
1/8/1974 |
1 |
52 |
Nguyễn Viết Thiêm |
1947 |
2/12/1973 |
2/9/1974 |
10 |
53 |
Nguyễn Duy Nguyên |
1949 |
23/11/1973 |
20/11/1974 |
7 |
54 |
Nguyễn Viết Quang |
1952 |
25/5/1974 |
22/2/1975 |
3 |
55 |
Nguyễn Duy Sâm |
1953 |
22/10/1974 |
22/7/1975 |
2 |
56 |
Hồ Thị Đào |
1949 |
22/1/1975 |
22/11/1975 |
10 |
57 |
Nguyễn Thị Thanh |
1954 |
3/12/1974 |
3/1/1976 |
2 |
58 |
Nguyễn Thị Lan |
1953 |
2/2/1976 |
2/2/1977 |
8 |
59 |
Nguyễn Hữu Thừa |
1953 |
20/12/1976 |
2/6/1978 |
6 |
Cán bộ cao cấp trong quân đội (Từ thượng tá trở lên
Giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ và tương đương
TT |
Họ và tên |
Năm sinh |
Học vị, chức vụ, đơn vị công tác |
1 |
Nguyễn Văn Tiệp |
|
PGS-TS, Trưởng khoa Nhân văn học Đại học KHXH Tp Hồ Chí Minh. |
2 |
Trần Quốc Việt |
|
Tiến sĩ, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Mỏ Địa chất Hà Nội |
3 |
Nguyễn Bá Xuân |
|
TS, Trưởng khoa Vật lý Viện Hải Dương học Nha Trang |
4 |
Đậu Phi Thuần |
1959 |
Thượng tá, TS, Phó giám đốc Công ty Lũng Lô |
5 |
Lê Duy Đại |
|
Tiến sĩ khoa khảo cổ học- Viện Dân tộc học Hà Nội |
6 |
Nguyễn Văn Nhạ |
|
Thạc sĩ, GV trường ĐHKT Velempíc TP Hồ Chí Minh |
7 |
Trần Thị Hảo |
|
Thượng tá, Thạc sĩ, GV trường ĐHKT Velempíc TP HCM |
8 |
Nguyễn Bá Hoành |
|
Thạc sĩ, Giáo viên trường Đại học Vinh-Nghệ An |
9 |
Nguyễn Thị Vân |
|
Thạc sĩ, Giáo viên trường Cao đẳng SP Vinh-Nghệ An |
10 |
Nguyễn Thị Hiền |
|
Thạc sĩ, trưởng phòng Đào tao trường Cao đẳng Kinh tế Vinh |
11 |
Đậu Phi Hải |
|
Thạc sĩ, GV trường ĐH Kỹ thuật 3 Vinh |
12 |
Nguyễn Bá Thịnh |
|
Thạc sĩ, CN khoa N2 trường PTTH Hà Huy Tập -Vinh |
13 |
Nguyễn Văn Anh |
|
Thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội |
14 |
Nguyễn Duy Thân |
|
Thạc sĩ, GĐ công ty Công nghệ Đồng Giao. |
15 |
Hồ Sỹ Long |
|
Thạc sĩ, Giám đốc XN Gas TP Hồ Chí Min |
16 |
Hồ Sỹ Kiệp |
|
Thạc sĩ, Vụ phó Vụ Tài vụ - Bộ GTVT |
17 |
Nguyễn Thị Chuẩn |
|
Thạc sĩ, trưởng khoa Dược BV chợ Rẫy, TP Hồ Chí Minh |
18 |
Nguyễn Bá Trứ |
|
Thạc sĩ, Nhà máy Điêzen Sông Công-Thái Nguyên |
19 |
Nguyễn Thị Phúc |
|
Chuyên khoa II, Giám đốc Sở y tế Nghệ An |
20 |
Nguyễn Viết Đa |
|
Thạc sĩ, trưởng phòng kinh doanh đối ngoại, Pinaxip |
21 |
Nguyễn Viết Dương |
|
Bác sĩ chuyên khoa II, Giám đốc Bệnh viện Phong - Da liễu Trung ương Quỳnh Lập |
Cán bộ phó phòng từ cấp huyện trở lên
TT |
Họ và tên |
Ngày sinh |
Chức vụ, đơn vị công tác |
1 |
Nguyễn Viết Hườu |
1928 |
Quyền Chủ tịch UBND huyện Quỳnh Lưu |
2 |
Bùi Thị Đào |
1933 |
Phó Chủ tịch UBND huyện Quỳnh Lưu |
3 |
Đậu Phi Lửng |
1945 |
Phó chủ tịch MTTQ huyện Quỳnh Lưu |
4 |
Hồ Sĩ Trọng |
1949 |
Trưởng phòng tài nguyên môi trường huyện Quỳnh Lưu |
5 |
Vũ Lê Mãn |
1940 |
PCT Hội nông dân huyện Quỳnh Lưu |
6 |
Trần Đăng Thưởng |
1940 |
Giám đốc Lương thực huyện Quỳnh Lưu |
7 |
Trần Đình Hưởng |
1949 |
Giám đốc Bưu điện huyện Nghĩa Đàn |
8 |
Nguyễn Bá Tính |
1957 |
Trưởng phòng KH xí nghiệp thuỷ lợi Quỳnh Lưu |
9 |
Nguyễn Thị Phúc |
1954 |
Giám đốc Sở Y tế Nghệ An |
10 |
Nguyễn Quốc Tiểm |
|
Phó Chủ tịch UBND huyện Sơn La-Lai Châu |
11 |
Nguyễn Quốc Tuấn |
1935 |
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên |
12 |
Đậu Phi Hoằng |
|
Phó Giám đốc lâm nghiệp thuộc Sở Lâm nghiệp Thanh Hoá |
13 |
Trần Cư |
1926 |
Giám đốc Lâm trường Yên- Quỳnh |
14 |
Trần Kiêm |
1922 |
GĐ nông trường Cafê, Cacao |
15 |
Nguyễn Bá Xiển |
1922 |
Bí thư Đảng uỷ Nông trường Đông Hiếu, Nghĩa Đàn |
16 |
Phan Đức Tú |
1964 |
Phó GĐ Ngân hàng Đầu tư Trung ương |
17 |
Phan Đức Thuội |
|
NGƯT, Bí thư đảng ủy, Phó Hiệu trưởng trường ĐH Lâm nghiệp Hà Nội |
18 |
Nguyễn Bá Thực |
1949 |
Phó giám đốc Công ty Xây dựng số 6, Nghệ An |
19 |
Nguyễn Văn Dũng |
1960 |
Thầy thuốc ưu tú, Phó Giám đốc BV Phong - Da liễu TW Quỳnh Lập |
20 |
Nguyễn Bá Bân |
|
Chủ nhiệm khoa Điều trị BV Phong - Da liễu TW Quỳnh Lập |
21 |
Nguyễn Bá Thoa |
|
Giám đốc Nhà máy Hoá chất cao su sao vàng Vinh |
22 |
Văn Sỹ Trường |
|
Giám đốc Cty chế biến lâm nghiệp Nghĩa Đàn, Sở LN Nghệ An |
23 |
Phan Đức Chánh |
|
Giám đốc XN gạch tuynen Hoàng Mai, Cty XD số 6, Nghệ An |
24 |
Nguyễn Việt Dương |
1964 |
Bác sỹ chuyên khoa II, Giám đốc Bệnh viện Phong - Da liễu TW Quỳnh Lập |
25 |
Nguyễn Bá Mãn |
|
Chủ nhiệm Công ty vật tư nông nghiệp Nghệ Tĩnh |
26 |
Nguyễn Văn Thắng |
|
Bí thư Đảng uỷ, Tổng GĐ Cty bánh kẹo Hải Hà, Hà Nội |
27 |
Nguyễn Văn Nhân |
|
PGĐ Nhà máy Điện cơ thành phố Hồ Chí Minh |
28 |
Văn Sỹ Khoát |
1936 |
Thường vụ Tỉnh đoàn Thanh Hoá |
29 |
Nguyễn Hồng Tởn |
1936 |
Cán bộ kiểm tra Đảng Tỉnh uỷ Sơn La |
30 |
Nguyễn Văn Nhãn |
1935 |
Phó phòng LĐ-TB tỉnh Khánh Hoà |
Danh sách
Chủ tịch Mặt trận tổ quốc qua các thời kỳ
Nhiệm kỳ |
Họ và tên |
Sinh năm |
Giai đoạn |
Địa chỉ |
1 |
|
|
3/1961-3/1962 |
Quỳnh Thiện |
2 |
Phan Đức Duật |
|
4/1962-3/1963 |
Quỳnh Thiện |
3 |
Mai Xơng |
|
4/1963-5/1965 |
Quỳnh Thiện |
4 |
NguyễnViết Ngoan |
|
6/1965-3/1966 |
Quỳnh Thiện |
5 |
Nguyễn Viết Ngoan |
|
3/1966-8/1967 |
Quỳnh Thiện |
6 |
? |
|
8/1967-11/1969 |
Quỳnh Thiện |
7 |
? |
|
11/1969-4/1971 |
Quỳnh Thiện |
8 |
Phan Đức Duật |
|
4/1971-3/1972 |
Quỳnh Thiện |
9 |
Trần Tiềm |
1918 |
3/1972-9/1973 |
Quỳnh Thiện |
10 |
Nguyễn Ngọc Cẩn |
1932 |
9/1973-6/1974 |
Quỳnh Thiện |
11 |
Nguyễn Ngọc Cẩn |
1932 |
6/1974-5/1975 |
Quỳnh Thiện |
12 |
Nguyễn Bá Doãn |
1947 |
5/1975-5/1976 |
Quỳnh Thiện |
13 |
? |
|
5/1976-1978 |
(nhập xã) Quỳnh Mai |
14 |
Trần Tiềm |
1918 |
1979-9/1981 |
Quỳnh Mai |
15 |
Nguyễn Viết Hiền |
1938 |
9/1981-10/1982 |
Tách xã Quỳnh Thiện |
16 |
Hoàng Đức |
1939 |
11/1982-9/1985 |
Quỳnh Thiện |
17 |
Nguyễn Bá Doãn |
1947 |
10/1985-11/1987 |
Quỳnh Thiện |
18 |
Nguyễn Bá Doãn |
1947 |
12/1987-9/1991 |
Quỳnh Thiện |
19 |
Nguyễn Bá Doãn |
1947 |
10/1991-11/1994 |
Quỳnh Thiện |
20 |
Nguyễn Bá Doãn
Nguyễn Bá Nam |
1947
1956 |
12/1994-7/1998
8/1998-8/1999 |
Quỳnh Thiện
Quỳnh Thiện |
21 |
Nguyễn Bá Nam
Nguyễn Duy Nguyên |
1956
1949 |
8/1999-12/1999
1/2000-12/2003 |
Quỳnh Thiện |
22 |
Nguyễn Bá Nam |
1956 |
1/2004-5 /2008 |
Thị trấn Hoàng Mai |
23 |
Nguyễn Bá Nam |
1956 |
5/2008-Nay |
Thị trấn Hoàng Mai |
Danh sách
Chủ tịch Hội Cựu chiến binh qua các thời kỳ
Khoá |
Họ và tên |
Sinh năm |
Giai đoạn |
Địa chỉ |
1 |
Trần Đăng Thờng |
1936 |
7/1990-9/1992 |
Quỳnh Thiện |
2 |
Đậu Huy Phượng |
1936 |
9/1992-5/1995 |
Quỳnh Thiện |
3 |
Đậu Huy Phượng |
" |
5/1995-8/1998 |
Quỳnh Thiện |
4 |
Đậu Huy Phượng |
" |
8/1998-9/2001 |
Quỳnh Thiện |
5 |
Đậu Đức Lý |
1952 |
9/2001-9/2006 |
Quỳnh Thiện |
6 |
Hồ Xuân Hộ |
1951 |
9/2006- nay |
TT Hoàng Mai |
Danh sách
Chủ tịch Hội Nông dân qua các thời kỳ
TT |
Họ và tên |
Sinh năm |
Giai đoạn |
Địa chỉ |
I |
Mai Xơng
Đậu Đức Long |
1952 |
1/1985-2/1986
2/1986-10/1989 |
Quỳnh Thiện |
II |
Đậu Đức Long
Nguyễn Bá Thọ |
1949 |
10/1989-3/1991
4/1991-3/1992 |
Quỳnh Thiện |
III |
Nguyễn Bá Hoà |
1950 |
4/1992-1997 |
Quỳnh Thiện |
IV |
Nguyễn Bá Hoà |
" |
1997-2002 |
Quỳnh Thiện |
V |
Nguyễn Bá Hoà |
" |
2002-2007 |
Quỳnh Thiện |
VI |
Lê Minh Lợi |
1964 |
2007- nay |
TT Hoàng Mai |
Danh sách
bí thư đoàn qua các thời kỳ
TT |
Họ và tên |
Sinh năm |
Giai đoạn |
Địa chỉ |
1 |
Đậu Phi Thiện |
|
1945-1947 |
Xã Văn Hoá |
2 |
Lê Trường |
|
1948-1951 |
xã Vinh Hoa và xã Quỳnh Mai |
3 |
Đậu Huy Lởi |
1932 |
1952-1954 |
Xã Quỳnh Mai |
4 |
Nguyễn Viết Triết |
1930 |
1954-1956 |
Xã Quỳnh Thiện |
5 |
Nguyễn Bá Hằng |
1936 |
1957-1958 |
Xã Quỳnh Thiện |
6 |
Trần Thăng |
1933 |
1959-1960 |
Xã Quỳnh Thiện |
7 |
Nguyễn Ngọc Cẩn |
1932 |
1961-1962 |
Xã Quỳnh Thiện |
8 |
TrầnĐăng Thưởng |
1940 |
1963-1964 |
Xã Quỳnh Thiện |
9 |
Nguyễn Thị Minh |
1941 |
1965-1966 |
Xã Quỳnh Thiện |
10 |
Đậu Thị Bằng |
1943 |
1966-1967 |
Xã Quỳnh Thiện |
11 |
Nguyễn Bá Doãn |
1947 |
1968-1973 |
Xã Quỳnh Thiện |
12 |
Nguyễn Thị Oanh |
1950 |
1973-1976 |
Xã Quỳnh Thiện |
13 |
Phạm Phu |
1950 |
1977-1979 |
Xã Quỳnh Mai |
14 |
Nguyễn Viết Hữu |
1958 |
1979-1981 |
Xã Quỳnh Mai |
15 |
Nguyễn Bá Sơn |
1954 |
1981-1983 |
Xã Quỳnh Thiện |
16 |
Nguyễn Bá Hoành |
1956 |
1983-1989 |
Xã Quỳnh Thiện |
17 |
Nguyễn Bá Tiến |
1968 |
1989-1994 |
Xã Quỳnh Thiện |
18 |
Phạm Minh Ngọc |
1967 |
1994-2001 |
Xã Quỳnh Thiện |
19 |
Nguyễn Bá Hào |
1972 |
2001-2004 |
Xã Quỳnh Thiện |
20 |
Nguyễn Bá Thành |
1977 |
2004- nay |
Thị trấn Hoàng Mai |
Danh sách
Chủ tịch hội phụ nữ qua các thời kỳ
TT |
Họ và tên |
Sinh năm |
Giai đoạn |
Địa chỉ |
1 |
Đậu Thị Tần |
|
1946-1947 |
Xã Văn Hoá |
2 |
Nguyễn Thị Mai |
1929 |
1947-1949 |
Xã Vinh Hoa |
3 |
Vũ Thị Viên |
1924 |
1949-1950 |
Xã Quỳnh Mai |
4 |
Nguyễn Thị Mai |
1929 |
1950-1954 |
Xã Quỳnh Mai |
5 |
Lê Thị Việng |
1928 |
1954-1955 |
Xã Quỳnh Thiện |
6 |
Bà Cớc (Bà Què) |
|
1955-1956 |
Xã Quỳnh Thiện |
7 |
Bùi Thị Đào |
1933 |
1956-1958 |
Xã Quỳnh Thiện |
8 |
Nguyễn Thị Mai |
1929 |
1958-1963 |
Xã Quỳnh Thiện |
9 |
Nguyễn Thị Đợi |
1939 |
1963-1965 |
Xã Quỳnh Thiện |
10 |
Vũ Thị Viên |
1924 |
1965-1971 |
Xã Quỳnh Thiện |
11 |
Nguyễn Thị Minh |
1942 |
1971-1974 |
Xã Quỳnh Thiện |
12 |
Nguyễn Thị Đợi |
1939 |
1974-1976 |
Xã Quỳnh Thiện |
13 |
NguyễnThịQuông |
|
1976-1978 |
Xã Quỳnh Mai |
14 |
Nguyễn Thị Lan |
1953 |
1978-4/1988 |
1981 tách Quỳnh Mai: Q.Thiện |
15 |
Võ Thị Quý |
1947 |
4/1988/5/2001 |
Xã Quỳnh Thiện |
16 |
Nguyễn Thị Lan |
1953 |
5/2001/6/2006 |
TT Hoàng Mai |
17 |
Đậu Thị Liệu |
1978 |
6/2006-nay |
TT Hoàng Mai |
Hợp tác xã nông nghiệp
I. Năm 1959: Làm điểm tổ chức xây dựng HTX nông nghiệp
Thịnh Mỹ -Chủ nhiệm: ông Đậu Phi Hán
II. Năm 1960-1961: Xây dựng phong trào HTX nông nghiệp
1. Xóm Thịnh Mỹ: Chủ nhiệm: ông Hoàng Đạt
2. Xóm Hào Phú: 2 HTX
a. Phú Thịnh: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Văn Chi
b. Phú An: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Bá Hùng
3. Xóm Bình An: 6 HTX
a. Tân An: Chủ nhiệm: ông Văn Sỹ Miêng
b. Trung An: 1960 - Chủ nhiệm: ông Nguyễn Bá Thái
1961 - Chủ nhiệm: ông Đậu Đức Đơ
c. Phúc An: Chủ nhiệm: ông Phan Đức Lơn
d. Nam Mỹ: 1960 - Chủ nhiệm: ông Nguyễn Bá Thóng
1961 - Chủ nhiệm: ông Trần Đăng Thưởng
e. Trung Mỹ: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Viết Bầu
g. Bắc Mỹ: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Duy Trường
III. Năm 1962-1963:
1. Thịnh Mỹ: Chủ nhiệm: ông Đậu Huy Lợc
2. An Thịnh: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Bá Hùng
3. Tân Phong: Chủ nhiệm: ông Phan Đức Lơn
4. Mỹ Phong: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Bá Mậu
IV. Năm 1964-1965: Sơ tán, di dân phát triển sản xuất, phòng tránh địch đánh phá
(Năm 1964, 47 hộ đi Làng Dọc, 13 hộ đi Rú Đất- Thanh Hoá)
1. Thịnh Mỹ: HTX nông nghiệp - Chủ nhiệm: ông Đậu Huy Lợc
HTX thuần nông - Chủ nhiệm: ông Hoàng Đạt
Di dân tới xã Quỳnh Tam
2. An Thịnh: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Bá Hùng
3. Tân Phong: Chủ nhiệm: ông Phan Thanh Đắc
4. Tân Thanh (Thanh Hoá) Chủ nhiệm: ông Phan Đức Lơn
5. Mỹ Phong: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Bá Mậu
6. Tân Hương (Làng Dọc) Chủ nhiệm: ông Nguyễn Ngọc Cẩn
V. Năm 1966-1967:
1. Thịnh Mỹ: Chủ nhiệm: ông Đậu Huy Lợc
2. An Thịnh: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Viết Ngoan
3. Tân phong Chủ nhiệm: ông Phan Thanh Đắc
4. Mỹ Phong: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Văn Thuyết
5. Tân Hương (Vũng Vị): Chủ nhiệm: ông Nguyễn Ngọc Cẩn
6. Tân Thanh: Chủ nhiệm: ông Phan Đức Lơn
(Nông dân Thịnh Mỹ thuộc xã Quỳnh Tam, còn Tân Thanh là khai hoang phát triển sản xuất vẫn thuộc xã Quỳnh Thiện)
VI. Năm 1968:
1. HTX Hùng Phong (gồm An Thịnh, Tân Phong, Mỹ Phong), chủ nhiệm ông Phan Thanh Đắc
2. HTX Thanh Hương (Tân Hương và Tân Thanh), Chủ nhiệm: ông Nguyễn Duy Bảy
VII. Năm 1969-1970:
1. HTX Hùng Phong Chủ nhiệm: ông Nguyễn Hồng Tởn
2. HTX Thanh Hương (Bộ phận Tân Thanh về giếng Hàng). Chủ nhiệm: ông Nguyễn Duy Bảy
VIII.1970 – 1972:
1. HTX Tân Hương: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Bá Thái
2. HTX Hùng Phong: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Hồng Tởn
IX. Năm 1973 - 4/1975
HTX Thống Nhất Quỳnh Thiện: Chủ nhiệm: ông Văn Sỹ Khoát
X. Tháng 5/1976-1979:
Xí nghiệp Quỳnh Mai: Chủ nhiệm, ông Văn Huy Luyện (khoá I) ông Nguyễn Ngọc Cẩn (khoá II)
XI. Năm 1980-1985: Tách Xí nghiệp Quỳnh Mai thành lập HTX Tân Thắng Quỳnh Thiện
1980: Chủ nhiệm: ông Văn Sỹ Khoát
1981-1982: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Bá Thái
1982 -1985: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Duy Ân
XII. Năm 1985 -1987: Tách HTX Tân Thắng Quỳnh Thiện
1. HTX Nam Thắng: Chủ nhiệm: ông Đậu Đức Long
2. HTX Bắc Thắng: Chủ nhiệm: ông Mai Xơng
XIII. Năm 1987 - 1989:
1. HTX Nam Thắng: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Duy ân
2. HTX Bắc Thắng: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Viết Hữu
XIV. Năm 1989 - 1991:
1. HTX Nam Thắng: Chủ nhiệm: ông Đậu Đức Long
2. HTX Bắc Thắng: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Viết Hữu
3. HTX Hùng Thắng: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Viết Thuỷ (1990-1991 tách từ HTX Bắc Thắng)
XV. Năm 1991-2008:
1. HTX Nam Thắng :
1991- 1996 Chủ nhiệm: ông Nguyễn duy Ân
1996 - 2001 Chủ nhiệm: ông Phan Đức Nhuận
2001- 2009 Chủ nhiệm: ông Nguyễn Bá Mệnh
2. HTX Bắc Thắng:
1991- 1999 Chủ nhiệm: ông Nguyễn Viết Hữu
2000-2009 Chủ nhiệm: ông Nguyễn Bá Thọ
3. HTX Hùng Thắng: 1991-1993 Chủ nhiệm: ông Nguyễn Viết Thuỷ
1993-1995 Chủ nhiệm: ông Lê Đăng Phong
1996-2000 Chủ nhiệm: ông Lê Đăng Mâm
2001-2005 Chủ nhiệm: ông Lê Thạc Hùng
2005-2008 Chủ nhiệm: ông Lê Minh Lợi
2008- nay Chủ nhiệm: ông Lê Đăng Điều
HTX Mua Bán Quỳnh Thiện
Với việc xây dựng nông nghiệp, đổi mới xây dựng nông thôn mới, Hợp tác xã mua bán và HTX tín dụng cung ứng hầu như toàn bộ vật tư: phân bón, giống cho sản xuất nông nghiệp, ngành nghề và mọi nhu yếu phẩm cho đời sống nhân dân, theo chế độ phân phối bao cấp đến tận từng hộ và người dân, thậm chí khi sơ tán, tránh địch, nhất là trẻ em người già cũng được HTX mua bán mở quầy hàng tại làng mới. Nơi sơ tán để cung cấp hàng hoá cho nhân dân. HTX mua bán đồng thời cũng là người đứng ra thu mua những sản phẩm của nông dân theo chỉ tiêu kế hoạch của chính quyền để làm nghĩa vụ cho Nhà nước như lợn hơi, than củi, rau quả cho cả lực lượng chiến đấu, các cơ quan đóng trên địa bàn và sơ tán đến.
Chủ nhiệm qua các thời kỳ:
Năm 1960-1963: Chủ nhiệm: ông Đậu Đức Nghị
Năm 1964-1966: Chủ nhiệm: ông Trần Đình Thoả
Năm 1967-1970: Chủ nhiệm: ông Phan Đức Duật
Năm 1970- 1973: Chủ nhiệm: bà Nguyễn Thị Tính
Năm 1973-1974: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Viết Ngoan
Năm 1975-1976: Chủ nhiệm: ông Trần Đình Thoả
Năm 1976 - 1979 Xã Quỳnh Mai: Chủ nhiệm: ông Lê Xuân Kha (Huyện điều về làm chủ nhiệm).
Tháng 7/1979 - 10/1981: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Bá Doãn
Năm 1981-1986: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Bá Hoà
Năm 1986 -1989: Chủ nhiệm: ôngTrần Văn Quang
Năm 1989-1993: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Văn Hân
HTX mua bán có: 2.300 xã viên.
HTX tín dụng
Năm 1960 xây dựng thành công các HTX nông nghiệp trong xã Quỳnh Thiện. Cán bộ xã được tập huấn tại huyện Quỳnh Lưu về xây dựng HTX tín dụng. HTX tín dụng đầu tiên do ông Nguyễn Bá Thóng làm chủ nhiệm.
Năm 1961-1965: Chủ nhiệm: ông Nguyễn Bá Thuynh
Năm 1966-1970: Chủ nhiệm: ông Nguyên Văn Hơn
Năm 1971-1974: Chủ nhiệm: ông Nguyên Văn Tam
Năm 1974-1976: Chủ nhiệm: ông Bùi Văn Việt
Năm 1976 -1981: HTX mua bán Quỳnh Mai
Năm 1981 -1986: Chủ nhiệm: ông Phan Thanh Đắc
Năm 1986 – 1990 : Chủ nhiệm: ông Nguyễn Bá Hoà
HTX tín dụng có 800 xã viên
Tư liệu ngành y tế
- 1946 -1954: Xã Văn Hoá và xã Quỳnh Mai chưa có trạm y tế
- 1954 - 1958: Khi tách xã, hình thành nhà thương tại xóm Học, lấy trường học làm nơi điều trị, cán bộ y tế do cấp trên điều về:
Ông Nguyễn Văn Sâm (Huế) y sỹ trực.
Bà Nguyễn Thị Quýt (Huế) làm y sỹ sản
Bà Nguyễn Thị Cầm ( Quỳnh Kim - Mai Hùng) làm y sỹ sản
- 1958 - 1963: Sau giảm tô, nhu cầu phòng chữa bệnh của nhân dân ngày càng được quan tâm, huyện điều ông Nguyễn Văn Khang (Quỳnh Hậu) làm trạm trưởng. Trạm gồm có: bà Châu, bà Phấn (Quỳnh Hậu), bà Thiềm (Quỳnh Vinh), ông Tuấn (Quỳnh Thiện), nhà thương được chuyển về Nam Mỹ (ông Don).
- 1963: Huyện mở trường y tế, các ông, các bà tham gia học: ông Nguyễn Viết Lịch xóm Bình An (khối Nam Mỹ), bà Nguyễn Thị Uynh, bà Nguyễn Thị Tình xóm Vưu Mỹ (khối Bắc Mỹ), bà Nguyễn Thị Nhuận, ông Phan Đức Đợt xóm Bình An (khối Tân Phong), bà Nguyễn Thị Loan và bà Nguyễn Thị Kiều xóm Vưu Mỹ.
- 1965: Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất, ông Nguyễn Văn Khang (Quỳnh Hậu) làm trạm trưởng, bà Nguyễn Thị Loan y tá, bà Nguyễn Thị Uynh hộ sinh.
- 1965-1968: ông Nguyễn Văn Khang làm trưởng trạm, bà Nguyễn Thị Loan y tá, ông Đinh Xuân Lượng y sỹ, năm 1968 huyện mở thêm một lớp y tá có các ông, bà tham gia bà Nguyễn Thị Lộc, bà Nguyễn Thị Đằng, bà Đậu Thị Bằng, ông Nguyễn Duy Tuấn, ông Hoàng Đức Minh. Từ đây các xóm đã có y tá phụ trách, nên các dịch bệnh sốt rét, thương hàn, lỵ… được kịp thời dập tắt.
- 1966-1972: Địch đánh phá miền Bắc, trạm y tế được sơ tán lên Đồng Sen do ông Nguyễn Viết Lịch phụ trách, vùng Tân Thanh do bà Nguyễn Thị Tình phụ trách.
- 1973 -1976: ông Nguyễn Bá Đợu Trạm trưởng
Ông Nguyễn Bá Hùng Trạm phó
Ông Nguyễn Duy Tuấn Trực
Bà Nguyễn Thị Uynh Sản
Trạm lúc này vẫn đóng tại nhà ông Don
- 1977 – 1994: trạm chuyển về xóm Thịnh Mỹ.
Ông Nguyễn Bá Đợu Trạm trưởng
Ông Phan Đức Trinh Y tá
Bà Nguyễn Thị Đức hộ sinh
- 1994 -2000: Trạm chuyển về Trúc Viên
Ông Nguyễn Bá Đợu Trạm trưởng
Bà Nguyễn Thị Đức B Y tá
Bà Nguyễn Thị Đức A hộ sinh
- 2001-Nay: Trạm chuyển về khối Tân Hương
Ông Nguyễn Bá Đợu Trạm trưởng
Bà Nguyễn Thị Đức B Y tá
Bà Nguyễn Thị Đức A hộ sinh
Bà Trần Thị Thu Hoà Dược
Ông Trần Lương Nghĩa Đông y
Năm 2005, ông Nguyễn Bá Đợu về nghỉ hưu, bà Nguyễn Thị Đức A phụ trách trạm. Đến năm 2008, ông Đậu Viết Hoàng làm trạm trưởng.
Tư liệu lịch sử trường mầm non Hoàng Mai
1. Thời kỳ chống Mỹ cứu nước 1973 trở về trước.
Mẫu giáo và vỡ lòng cùng chung. Mẫu giáo có 2 lớp học tại nhà dân
Giáo viên dạy: Nguyễn Thị Cần, xóm 4, Nguyễn Thị Tường, xóm 5
Trong chiến tranh các lớp mẫu giáo bị tan rã
2. Sau chiến tranh 1974, phong trào được khôi phục.
- Số lớp: 2, Số giáo viên: 2. Người phụ trách: cô Nguyễn Thị Tịnh, xóm 2.
Tháng 9/1974 trường được thành lập:
- Số lớp: 3, Số cháu: 85, Số giáo viên: 3, GV phụ trách: cô Nguyễn Thị Tịnh
Từ 1975-1978: Trường có 6 lớp. Số cháu: 105. Hiệu trưởng: Nguyễn Thị Tâm (chung xí nghiệp Quỳnh Mai.
Từ 1979 đến 1984: Trường được tách ra khỏi xí nghiệp.
- Số lớp: 8, Số giáo viên: 8, Số cháu: 250 . GV phụ trách:
Cô Nguyễn Thị Lơn (Quỳnh Dị)
Cô Nguyễn Thị Hoà (Quỳnh Hồng), cán bộ chuyên trách của Phòng giáo dục.
Từ 1985-1987:
Thời kỳ trường được ổn định sau những năm khó khăn, chao đảo vì chế độ giáo viên không đảm bảo, cơ sở vật chất chưa có gì, giáo viên cũ nghỉ dạy lại tuyển dụng tiếp giáo viên mới.
- Số lớp: 9, Số cháu: 260, Số giáo viên: 9
- Hiệu trưởng: Bùi Thị Tình (được tuyển dụng vào biên chế)
3. Thời kỳ đổi mới (1987-nay):
Năm 1988-1990:
- Số lớp, giáo viên vẫn giữ nguyên, Số cháu tăng: 290. Hiệu trưởng: Bùi Thị Tình
Năm 1990-1991:
- Số lớp: 10, Hiệu trưởng: Bùi Thị Tình. Danh hiệu: Trường tiên tiến
Năm 1991-1997:
- Số lớp: 11, Số cháu: 300-335 cháu
- Hiệu trưởng: Bùi Thị Tình, Chiến sỹ thi đua cấp huyện. Trường liên tục đạt danh hiệu tiên tiến cấp huyện
Năm 1997-2007:
Trường đổi tên từ trường Mẫu giáo sang trường Mầm non: Số lớp, nhóm từ 12-15 nhóm lớp (11 lớp Mẫu giáo + 4 lớp nhà trẻ). Số cháu: 366-429 (10 lớp mẫu giáo, 5 nhóm trẻ)
Hiệu trưởng: Bùi Thị Tình.
Danh hiệu trường: Năm 1997-2007: Liên tục đạt trường tiên tiến suất sắc (TTXS). Năm 2000-2001: Bộ Giáo dục - Đào tạo tặng bằng khen.
- Năm 2002-2003: Chính phủ tặng Bằng khen. Năm 2004-2005: Bộ Giáo dục - Đào tạo tặng bằng khen
- Năm 2002: Đơn vị văn hoá cấp tỉnh
- Năm 2004-2005: Công nhận trường đạt chuẩn Quốc gia
- Năm 2008: Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba.
Tư liệu lịch sử trường tiểu học a hoàng mai
Trường Tiểu học A Hoàng Mai có trước năm 1945, là một trường quốc học thời Pháp có tên là Êcôn Đờ Thiện Kỵ, học sinh của trường gồm các xã vùng Hoàng Mai, lớp ghép có đánh vần, viết được chính tả, có cả trình độ lớp 3 và lớp 4, khi đi thi đậu yếu lược hoặc Prime vào huyện thi.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 trường có tên gọi là trường cấp 1 Thiện Kỵ.
Trường có 2 lớp đến 3 lớp ghép, giáo viên có từ 3-4 người, học sinh có khoảng 120-130 em. Thầy Nguyễn Đức Nhuận làm hiệu trưởng.
Từ năm 1948 đến năm 1954, trường có 4 lớp từ lớp 1 đến lớp 4, số học sinh mỗi lớp có lúc lên đến 55 em, toàn trường có khoảng 210 em. Thầy Hồ Phi Tiến (Quỳnh Đôi) làm hiệu trưởng.
Từ 1955-1957: Trường có 5 lớp khoảng 260 học sinh. Thầy Đậu Huy Thuân (Quỳnh Thiện) làm hiệu trưởng
Từ 1957-1959: Trường có 7 lớp học sinh gần 300 em. Thầy Hồ Phi Thống (Quỳnh Ngọc) hiệu trưởng.
Từ 1959 -1961: Trường có 7 lớp, số sinh khoảng 330 em. Thầy Phạm Xuân Hà (Quỳnh Bá) làm hiệu trưởng
Từ năm 1961-1963: Trường có 8 lớp, số học sinh khoảng 350 em. Thầy Đậu Huy Thuân làm hiệu trưởng.
Từ năm 1963 -1965: Trường có 8 lớp, khoảng 400 học sinh. Thầy Nguyễn Xuân Mởn (Quỳnh Vinh) hiệu trưởng.
Từ năm 1966 -1969: Trường có 9 lớp, khoảng 450 em. Thầy Nguyễn Thái Toản (Quỳnh Thiện) hiệu trưởng
Từ 1969 -1975: Trường có khoảng 10 lớp, số học sinh khoảng 490 em. Thầy Phan Đức Viễng (Quỳnh Thiện) hiệu trưởng.
Từ năm 1976-1979: Trường có 12 lớp, có khoảng 570 em. Thầy Hồ Phi Ký làm hiệu trưởng.
Từ năm 1979-1983: Trường nhập cấp 2 thành trường cấp 1,2 Quỳnh Thiện riêng cấp 1 có 12 lớp, khoảng 600 em. Thầy Nguyễn Văn Bằng (Quỳnh Lâm) hiệu trưởng, thầy Bùi Đình Châu (Quỳnh Vinh), hiệu phó phụ trách cấp 1.
Từ năm1983 -1986: Trường có 12 lớp số học sinh có 600 em. Thầy Nguyễn Ngọc Túc hiệu trưởng.
Từ năm1986-1989: Trường cấp 1,2 Quỳnh Thiện, cấp 1 có 13 lớp, học sinh có khoảng 650 em. Thầy Nguyễn Hùng, hiệu trưởng, bí thư chi bộ, chủ tịch công đoàn.
Từ năm 1989-1992: Thầy Lê Đăng Thành (Quỳnh Vinh) hiệu trưởng
Từ năm 1992-1997: Cuối năm 1992 trường cấp 1 được tách ra tên gọi là trường cấp 1 Quỳnh Thiện, trường được xây dựng 2 tầng có 13 lớp học, học sinh khoảng 670 em. Thầy Phan Đình Hoè (Quỳnh Thiện) hiệu trưởng.
Từ năm 1997-1999: Năm 1997 trường cấp 1 Quỳnh Thiện được chia thành 2 trường: trường cấp 1A và trường cấp 1B. Trường cấp 1A có 8 lớp, học sinh có 420 em cô Nguyễn Thị Yến (Quỳnh Dị) hiệu trưởng
Từ năm 2000-2006 trường có 10 lớp có khoảng 500 em, thầy Ngô Trí Xuyên (Mai Hùng) hiệu trưởng
Từ năm 2006 – nay: Trường có 12 lớp, học sinh 370 em, cô Lương Thị Hằng (Cầu Giát) hiệu trưởng.
Một số thành tích nổi bật của trường:
Năm 2000-2006: Trường đạt tiên tiến xuất sắc và được công nhận đơn vị văn hoá và trường đạt chuẩn quốc gia.
Tư liệu lịch sử trường tiểu học B hoàng mai
1. Trường Tiểu học B Hoàng Mai được tách ra từ trường Tiểu học Quỳnh Thiện vào tháng 9 năm 1997. Lúc đó trường có tên gọi trường Tiểu học Quỳnh Thiện B. Trường đóng trên địa bàn xóm Tân Tiến, đến năm học 2000-2001 chuyển về khối Tân Hương.
- Tổng số 21 cán bộ giáo viên, 18 lớp, 593 học sinh.
2. Thống kê từ ngày thành lập đến nay (1997-2007)
Năm học |
Hiệu trưởng |
Hiệu phó |
T.Số
CBGV |
T. Số
lớp |
T. Số
HS |
GVGH |
GVGT |
HSGH |
HSGT |
TNTH |
Đoàn
TN |
Danh
hiệu
CĐ |
Danh
hiệu
trường |
1997-1998 |
Nguyễn Thị Xuyến |
Nguyễn Thị Hằng |
21 |
18 |
560 |
1 |
0 |
12 |
0 |
23/123 |
K |
VM |
TT |
1998-2000 |
|
Nguyễn Thị Hằng (phụ trách trường) |
19 |
16 |
551 |
3 |
0 |
6 |
4 |
118/118 |
‘’ |
‘’ |
‘’ |
2000-20001 |
NguyễnThị hị Hằng |
Bùi Thị Xuân |
20 |
17 |
530 |
3 |
0 |
4 |
3 |
115/115 |
‘’ |
‘’ |
‘’ |
2001-2002 |
Nguyễn Thị Hằng |
Bùi Thị Xuân |
23 |
17 |
517 |
3 |
0 |
2 |
02 |
88/88 |
‘’ |
‘’ |
‘’ |
2002-2003 |
Nguyễn Thị Hằng |
Bùi Thị Xuân |
23 |
17 |
516 |
3 |
1 |
15 |
2 |
105/105 |
‘’ |
‘’ |
TT+CQG |
2003-2004 |
Nguyễn Thị Hằng |
Bùi Thị Xuân |
24 |
17 |
495 |
1 |
1 |
25 |
12 |
110/110 |
‘’ |
‘’ |
Đạt đơn vị văn hoá‘’ |
2004-2005 |
Nguyễn Thị Hằng |
Bùi Thị Xuân |
23 |
16 |
458 |
|
1 |
4 |
|
101/101 |
Tốt |
‘’ |
‘’ |
2005-2006 |
Nguyễn Thị Hằng |
Bùi Thị Xuân |
22 |
16 |
433 |
|
1 |
|
|
114/114 |
‘’ |
‘’ |
‘’ |
2006-2007 |
Vũ Thị Cử |
Bùi Thị Xuân |
22 |
15 |
390 |
|
1 |
|
|
86/88 |
|
VMXS |
‘’ |
Tư liệu lịch sử trường THCS thị trấn Hoàng Mai
1. Lịch sử hình thành và phát triển trường THCS Hoàng Mai
Trường THCS Hoàng Mai ngày nay tiền thân là trường tư thục, một trong hai trường của huyện Quỳnh Lưu từ năm 1949-1950.
Lúc mới hình thành trường chỉ có 2 lớp 5 (lớp 6 bây giờ), các lớp phải học tạm ở 2 nơi (nhà thờ tộc Nguyễn Bá và đền Bình An). Phụ trách trường lúc đó là thầy Hà Mạch. Trường thu hút hầu hết học sinh vùng Hoàng Mai, một thời gian sau trường giải thể, học sinh của trường tiếp tục phải theo học Quỳnh Bá, Quỳnh Đôi.
Năm 1955, trường hình thành trở lại, các lớp vẫn phải đặt ở nhà dân và các đình, chùa. Trường do thầy Lê Như Mộc (Ninh Bình) làm hiệu trưởng, tên trường là cấp 2 xã Quỳnh Thiện.
Năm 1956-1957, trường phát triển lên 2 lớp 5, 2 lớp 6, 1 lớp 7 và do thầy Nguyễn Hữu Tín (Hà Nam) làm hiệu trưởng.
Năm 1957-1958, trường chuyển về vị trí trường tiểu học cũ ở xóm An Thịnh (khối 2 bây giờ) do thầy Thái (Bắc Ninh) làm hiệu trưởng. Lúc này trường đã có 5 lớp (2 lớp 5, 2 lớp 6, 1 lớp 7)
Năm 1958-1959 và 1959-1960, trường có 3 khối (5,6,7). Mỗi khối 2 lớp do thầy Đinh Ngọc Sam là hiệu trưởng, thầy Hồ Trọng Hùng làm thư ký công đoàn.
Từ năm 1960-1965, nhà trường do thầy Nguyễn Đức Nhuận làm Bí thư chi bộ kiêm Hiệu trưởng. Trường gồm học sinh các vùng: Quỳnh Thiện, Quỳnh Lộc, Quỳnh Phương, Quỳnh Lập, Quỳnh Dị, Quỳnh Liên, Quỳnh Thắng, Quỳnh Vinh, Quỳnh Trang, Quỳnh Kim, Quỳnh Hợp.
Năm 1965, giặc Mỹ đánh phá miền Bắc, nhà trường phải tách lẻ các lớp sơ tán về các địa phương. Thời gian này chỉ còn mỗi khối 1 lớp, vị trí các lớp luôn phải di dời để đảm bảo an toàn cho thầy và trò. Năm 1967, chiến tranh ngày càng ác liệt, trường phải chuyển lên vùng Mu Cua. Vùng đất này được thầy Nhuận đặt tên là Hùng Sơn, giáo viên của trường này bao gồm các thầy, cô: Nguyễn Đức Nhuận, Văn Đức Yến, Nguyễn Thị Thanh Toàn, Nguyễn Bá Bảy, Đậu Đức Tước…
Từ năm 1968-1971, thầy Nguyễn Văn Thước làm hiệu trưởng, thầy Nguyễn Bằng làm chủ tịch Công đoàn, thầy Phạm Đăng Đàn làm bí thư chi bộ, trường học ở Đồng Sen.
Từ năm 1972-1974:
Từ năm 1975-1982: thầy Nguyễn Ngọc Tú là Bí thư chi bộ kiêm Hiệu trưởng, thầy Ngô Trí Xuyên làm bí thư chi đoàn.
Từ 1982-1990: Tổng số 10 lớp, trong đó khối 6 có 3 lớp, khối 7 có 3 lớp, khối 8 có 2 lớp, khối 9 có 2 lớp và học tại trung tâm xã Thầy Nguyễn Hùng làm hiệu trưởng, trường sát nhập thành trường cấp 1, 2 Quỳnh Thiện.
Từ 1992-2000: Trường gồm 20 lớp/970 học sinh (khối 6: 5 lớp, khối 7 : 5 lớp, khối 8:5 lớp, khối 9: 5 lớp). Trường liên tục đạt danh hiệu tiên tiến: Tiên tiến (1992-2000), riêng năm học 1997-1998 đạt danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc. Cô Trần Thanh Hương làm Bí thư chi bộ kiêm Hiệu trưởng.
Từ 2000-2005. Thầy Nguyễn Viết Xuân làm Bí thư chi bộ kiêm Hiệu trưởng.
Từ 2005- nay: Cô Trần Thanh Hương làm Bí thư chi bộ kiêm Hiệu trưởng.
Từ tháng 4/2006 trường được đổi tên là trường THCS thị trấn Hoàng Mai. Tổng số 20 lớp/840 học sinh ((khối 6: 5 lớp, khối 7 : 5 lớp, khối 8:5 lớp, khối 9: 5 lớp).
Thành tích của trường:
- 1993- 2000 đạt danh hiệu tiên tiến. Từ năm 2001 đến nay, trường đạt danh hiệu TTSX (ba năm liền đạt tiên tiến xuất sắc cấp tỉnh), năm 2004 đạt đơn vị văn hoá; năm 2008 đạt chuẩn Quốc gia.
Tư liệu lịch sử trường THPT Hoàng Mai
1. Ngày thành lập:
Ngày 14 tháng 6 năm 1997, theo Quyết định số 2489/QĐ-UBND của UBND tỉnh Nghệ An.
2. Những thành tích của trường.
- Chi bộ nhiều năm đạt Chi bộ trong sạch vững mạnh (2003-2006)
- Trường tiên tiến cấp tỉnh nhiều năm 2000-2001, 2003-2006; đơn vị văn hoá năm 2005.
- Đoàn trường được Trung ương Đoàn tặng bằng khen.
- 15 thầy cô được Bộ GD-ĐT tặng kỷ niệm chương vì sự nghiệp giáo dục.
- 1 thầy giáo được UBND tỉnh tặng bằng khen
- 1 chiến sỹ thi đua cấp tỉnh, 10 chiến sỹ thi đua cơ sở
Về học sinh:
- Học sinh giỏi quốc gia: 1 em. Tuyển thẳng vào đại học, cao đẳng: 2 em. Học sinh đậu Đại học, cao đẳng: hơn 1.000 em
- Học sinh giỏi tỉnh: 270 em
3. Tổng số cán bộ, giáo viên, nhân viên.
- Tổng số cán bộ quản lý: 3, tổng số đảng viên: 24 đ/c
- Giáo viên: 71; Nhân viên: 5
Các tổ chức, đoàn thể chính trị xã hội: Đoàn thanh niên, Công đoàn, Hội cựu chiến binh hoạt động có hiệu quả và luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
5. Các chức danh qua các thời kỳ (Đảng, chính quyền).
Thời kỳ |
Họ và tên |
Chức vụ Đảng, chính quyền |
Ghi chú |
1997-3/2003 |
Nguyễn Văn Đàn |
Hiệu trưởng |
|
Hồ Sỹ Giáp |
Bí thư chi bộ, Phó Hiệu trưởng |
|
4/2003- 2008 |
Bùi Huy Lưu |
Bí thư chi bộ, Hiệu trưởng |
|
2004-2007 |
Nguyễn Thị Thanh Thuỷ |
P. Hiệu trưởng, Bí thư chi bộ |
|
2005-2008 |
Nguyễn Viết Lộc |
P. Hiệu trưởng, Bí thư chi bộ |
|
Nguyễn Bá Vinh |
Phó Hiệu trưởng |
|
tài liệu tham khảo
1. Lịch sử Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu (1930-2000). Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Hà Nội năm 2000.
2. Địa chí văn hoá Quỳnh Lưu. Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin - Hà Nội năm 2009.
3. Lịch sử Đảng bộ Nghệ An. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Hà Nội năm 1998.
4. Nghệ Tĩnh hôm qua và hôm nay. NXB Sự thật - Hà Nội năm 1986.
5. Đại Việt sử ký toàn thư. NXB Khoa học xã hội - Hà Nội năm 1969.
6. Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, NXB Khoa học xã hội Hà Nội năm 1981.
7. Quỳnh Lưu phong thổ ký, bản dịch, hiện lưu giữ tại thư viện Nghệ An.
8. Họ Hồ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, NXB Văn hoá - thông tin năm 1995.
9. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội năm 2000.
10. Quỳnh Lưu - huyện địa đầu xứ Nghệ, NXB Nghệ An năm 1990.
11. Bà mẹ Việt Nam anh hùng tỉnh Nghệ An - NXB Nghệ An năm 1999.
12. Biên bản tổng hợp sử liệu Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu (1930-1945), họp từ ngày 16 đến ngày 20-12-1968. Tư liệu lưu trữ tại Huyện uỷ Quỳnh Lưu.
13. Lịch sử các xã, thị trấn trong huyện đã xuất bản.
14. Các văn bản các kỳ Đại hội của đảng bộ thị trấn Hoàng Mai.
15. Các tài liệu khác liên quan đến hoạt động của đảng bộ thị trấn Hoàng Mai.
MụC lục
|
Trang |
Lời nói đầu |
3 |
Chương I:
KHáI QUáT CHUNG MIềN QUÊ THị TRấN HOàNG MAI |
5 |
I- Địa lý, sự hình thành thị trấn Hoàng Mai |
5 |
II- Giá trị văn hóa - Phong tục, tập quán |
14 |
Chương II:
truyền thống đấu tranh của nhân dân thiện kỵ đến cách mạng tháng tám 1945 |
27 |
I- Trước khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời |
27 |
II- Từ ngày Đảng ra đời đến Cách mạng tháng Tám 1945 |
32 |
Chương III:
nhân dân thiện kỵ góp phần vào sự nghiệp kháng chiến chống thực dân pháp thắng lợi (1946-1954) |
41 |
I- Những việc làm sau khi giành chính quyền |
42 |
II- Kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954) |
38 |
Chương IV:
đảng bộ, nhân dân quỳnh thiện trong sự nghiệp xây dựng cnxh và chống mỹ cứu nước (1954-1975) |
63 |
I- ổn định tình hình sau chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1954-1965) |
47 |
II- Đảng bộ, nhân dân Quỳnh Thiện trong công cuộc xây dựng CNXH, góp phần cùng cả nước đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược (1965-1975) |
53 |
Chương V:
đảng bộ, nhân dân thị trấn hoàng mai vững bước đi lên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đổi mới quê hương, đất nước (1975-2008) |
94 |
I- 10 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quê hương của Đảng bộ và nhân dân xã Quỳnh Thiện |
95 |
II- Đảng bộ, nhân dân Quỳnh Thiện đi lên trong sự nghiệp đổi mới, định hướng XHCN (1986-2008) |
70 |
Thay cho lời kết |
83 |
Phụ lục |
88 |
Tài liệu tham khảo |
104 |
Câu hát trong bài "Quỳnh Lưu, đất mẹ Anh hùng" của Tân Khai.
() Nơi dừng chân nghỉ ngựa của các vua chúa
() Xã Văn Hoá gồm hai làng Thiện Kỵ - Dị Nậu (Quỳnh Dị) 1946. 1947-1948 xã Vinh Hoa gồm Thiện Kỵ - Dị Nậu - Quý Vinh (Quỳnh Vinh). 1948-1954 xã Quỳnh Mai bao gồm: Quỳnh Vinh, thị trấn Hoàng Mai, Quỳnh Dị, Quỳnh Trang, xóm Yên Lộc, Yên Trạch (Quỳnh Hợp -Mai Hùng) hiện nay
() Thơ Nguyễn Tiến Bảng - “Quỳnh Lưu phong thổ diễn ca”.
Cao Biền là một tướng giỏi của nhà Đường được cử sang vùng Hoan – Diễn, giữ chức “kiểm biện công bộ thư” (thời kỳ này nước ta bị phong kiến Trung Hoa thống trị).
()Địa chí văn hoá Quỳnh Lưu - Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin - Hà Nội- 2009, trang 69
Ông được phong là Uy Minh Hầu
() Hương ước làng Thiện Kỵ, xem ở phần phụ lục.
() Ban chỉ đạo đã có công văn nhưng các dòng họ không cung cấp tư liệu đầy đủ.
() Tên gọi là xóm Trong.
() Từ năm 1964 lại nay, làng Dọc thuộc thị trấn Hoàng Mai
Theo "Đại Việt sử ký toàn thư"
() "Đại Nam Điều lệ toát yếu" - Quốc sư quán triều Nguyễn biên soạn, Tiến sỹ Nguyễn ái Giác phiên âm, dịch nghĩa - NXB TP Hồ Chí Minh 1993.
() Yên Quỳnh là Quỳnh Tụ (Quỳnh Xuân), từ thế kỷ XVII là huyện lỵ của Quỳnh Lưu
Xem toàn văn bia ghi ở phần phụ lục
() "Quỳnh Lưu, huyện địa đầu xứ Nghệ" (NXB Nghệ Tĩnh 1990, trang 39) nói ông đậu tiến sỹ năm 1543.
() Thơ Nguyễn Tiến Bảng, sđd
Địa chí văn hoá Quỳnh Lưu, trang 410 - 411
() Địa chí văn hoá Quỳnh Lưu, trang 248.
()Đại Việt Sử ký tục biên, NXB khoa học xã hội Hà Nội trang 67, bản dịch của Ngô Thế Long, Nguyễn Kim Lung, Nguyễn Đổng Chi hiệu chỉnh.
() Quỳnh Lưu huyện địa đầu xứ Nghệ.
() Mục triện là con dấu của làng, xã (BBT)
() Danh sách đảng viên của chi bộ Quý Vinh - Thiện Kỵ:
Văn Sỹ Thọ Nguyễn Bá Ngoạn
Nguyễn Bá Nghiêm Vũ Lê Lự
Nguyễn Viết Kế Nguyễn Bá Thếp
() Đ/c Phạm Diên có cửa hàng bán thuốc Bắc ở Hoàng Mai.
Cán bộ Tỉnh uỷ Thanh Hoá vào Hữu Lập lánh nạn truy lùng của địch.
() Nguyễn Trung Khiêm là một người yêu nước, sau này khi cách mạng thành công ông được giữ chức vụ trong chính quyền. Dự cuộc mít tinh có các đảng viên chi bộ Quý Vinh - Thiện Kỵ tham gia
() Bang tá có quyền như trưởng công an huyện hiện nay.
() Lịch sử Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu, trang 95
() Hồ Chí Minh toàn tập, tập … - NXB Chính trị Quốc gia- Hà Nội, trang 93-94
() Tài liệu lưu trữ tại Huyện uỷ Quỳnh Lưu
() Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, uỷ ban kháng chiến được thành lập song song với uỷ ban hành chính, nhưng chỉ một thời gian ngắn thì sát nhập 2 uỷ ban gọi là Uỷ ban hành chính kháng chiến.
() Năm 1954, khi xã Quỳnh Mai tách ra thì chi bộ xã Quỳnh Thiện đã có 50 đảng viên
() Tài liệu do Ban sử xã Quỳnh Dị cung cấp.
() Thịên Kỵ có các đồng chí tham gia: Nguyễn Kích (quân báo), đ/c Thiện (trung đội phó), Nguyễn Duy Đăng (quản lý), Nguyễn Biên, Nguyễn Văn Nhuỵ.
() Ông Nguyễn Bá Thái mua 2,5 tấn thóc, giá 1 tạ gạo lúc đó là 60 đồng, bằng một nếp nhà gỗ lim ba gian khoảng 1.000 đồng.
() Năm 1949, nhiều xã trong huyện được sát nhập (cả huyện lúc đó chỉ có15 xã), xóm đổi thành chòm
Huyện uỷ, Huyện đội đóng tại Quỳnh Đôi.
Hướng Lạch Quèn, chúng chỉ dùng một bộ phận nhỏ khoảng 100 tên lên Phú Sơn (Quỳnh Nghĩa - Tiến Thuỷ) chiếm núi Mành Sơn làm chỉ huy sở cho trận càn.
Tơi làm bằng lá nón kết lại chống mưa
() Có tài liệu nói là ngày 5/11/1953 dương lịch.
Một bộ đội, một dân quân và một du kích.
() Chỉ thị phát động thi đua ái quốc của Trung ương Đảng ngày 27/3/1948
() (3) Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch tập I, NXB Sự Thật 1956, trang 293- 294.
() Tài liệu “Huấn luyện cán bộ thi đua xã, ban vận động thi đua ái quốc phát hành năm 1949, lưu trữ tại Huyện uỷ Quỳnh Lưu
() Lịch sử xã Quỳnh Dị năm 1998 - trang 2
() Nghệ Tĩnh kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954, XN In Nghệ Tĩnh 1989 - trang 112
() “Đoàn thể” là nói về “Đảng” vì cuối năm 1945 Đảng ta đã tuyên bố tự giải tán, thực chất là rút vào hoạt động bí mật.
(), (3)Hồ Chí Minh: Toàn tập NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 1945, trang 76,78.
Tên xã Quỳnh Thiện có từ đây
() Trận lụt từ ngày 23-26 tháng 9 năm 1954, làm cho 67 người chết, 2.300 trâu, bò, lợn bị cuốn trôi, 2.859 ngôi nhà bị sập, 50 đoạn đê bị vỡ có đoạn dài 30m, sâu 6m, 100% hồ đập ở miền núi bị vỡ, cả tỉnh mất trắng 70.000 mẫu ruộng (ước tính thiệt hại 50%). Nghệ An lịch sử kháng chiến thống Mỹ cứu nước (1954-1975), xuất bản năm 1995, trang 23.
() Hồ Chí Minh toàn tập. trang 8 và 315.
() Tài liệu lưu trữ tại Huyện uỷ Quỳnh Lưu.
() Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng, Hà Nội 1960, trang 179-180
() Nghệ An - Quảng Ngãi kết nghĩa
() Huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi kết nghĩa với huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
() An Ngãi là tên ghép hai tỉnh kết nghĩa Nghệ An và Quãng Ngãi..
() Lịch sử Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu, trang 207.
() Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Nghệ An, NXB Nghệ An năm 1995, trang 108
() Lịch sử Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu, trang 214.
() Tháng 12-1966, đồng chí Nguyễn Hồng Tởn làm Phó Chủ tịch
Đến năm 1968 do sốt rét hoành hành nên được chuyển xuống Tân Thanh (Thanh Hoá). Năm 1970, địch ngừng ném bom, dân được chuyển về Giếng Hàng, Chùa Bụt; ngày nay thành lập nên khối Tân Tiến, Tân Hương.
() Đỗ Lương Bằng là một chiến sĩ có hơn 2 năm chiến đấu ở Hoàng Mai, anh đã tham gia gần 500 trận, góp phần cùng đồng đội bắn rơi 20 máy bay các loại của đế quốc Mỹ. Trận chiến ngày 10-7-1966, máy bay Mỹ đánh thẳng vào trận địa, anh bị thương nặng và hy sinh tại vùng Hoàng Mai. Nhật ký của anh hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Quân khu IV.
() Máy bay rơi xuống đồng Bát (gần Cầu Trịch, xã Quỳnh Hợp, nay là xã Mai Hùng)
() Sau đó, đồi này được gọi là đồi An - Phú, nơi các đồng chí Trần Đức An và Nguyễn Văn Phú hi sinh
“Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu dũng cảm và vào bộ đội.
Sẵn sàng khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, học tập trong bất cứ tình huống nào.
Sẵn sàng đi bất cứ nơi nào, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần đến”
“Đảm đang sản xuất và công tác thay chồng, con, anh em đi chiến đấu
Đảm đang công việc gia đình cho chồng, con, anh em yên tâm chiến đấu, khuyến khích chồng, con anh em tòng quân và phục vụ lâu dài trong quân đội.
Đảm đang phục vụ chiến đấu, tham gia dân quân tự vệ, tập luyện quân sự để sẵn sàng chiến đấu, tham gia dân quân tự vệ khi chiến đấu”.
Hai HTX xã này tồn tại cho đến lúc thành lập xí nghiệp Quỳnh Mai sau này
() NQ Đại hội đảng bộ huyện Quỳnh Lưu lần thứ XV. Tài liệu lưu trữ tại Huyên uỷ
() Đồng chí Trần Luân và đồng chí Trần Hanh sau được điều động lên làm cán bộ huyện
() Năm 1979 đồng chí Trần Hanh thay đồng chí Hồ Nuỵ.
() Đề án phát triển cơ giới hoá và điện khí hoá nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm 1976-1980 của uỷ ban nông nghiệp Trung ương ngày 22-12-1975, trang 5. Tài liệu lưu tại Văn phòng Huyện uỷ Quỳnh Lưu
() Nghị quyết của Tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh. Tài liệu lưu tại Văn phòng Huyện uỷ Quỳnh Lưu
() Nghị quyết của Tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh, Tài liệu lưu tại Văn phòng Huyện uỷ Quỳnh Lưu
Phương châm này trong thời kỳ đổi mới, Trung ương đã khái quát thành luận điểm chung cho cả nước: “Nhà nước và nhân dân cùng làm”
() Tư liệu lịch sử lực lượng vũ trang, lưu trữ tại Huyện đội và Huyện uỷ Quỳnh Lưu.
() Lao động loại A phải đạt 28 công/người/tháng, loại B phải đạt 26 công/người/tháng; nếu không đạt sẽ bị phạt.
Đại hội làm đúng quy trình đã bầu ra Ban Chấp hành nhưng sự việc xẩy ra do mộ bố của đồng chí Lê Đăng Tới cất ở Đồi Đất, nhân dân không đồng tình, nên Huyện ủy không công nhận Ban chấp hành. Đồng chí Nguyễn Bá Túa bị kỷ luật. Ban chấp hành vẫn hoạt động cho đến hết nhiệm kỳ 1985
Trước đây nếu xã viên, đặc biệt là đảng viên cán bộ làm đều bị phạt và kỷ luật
() Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, NXB Sự thật - 1987.
() Sau vụ Vinh - Thiện, đồng chí Nguyễn Bá Hương, Quyền Chủ tịch
() Trích Báo cáo số 69/1994 của Huyện uỷ về tình hình hai xã Quỳnh Vinh - Quỳnh Thiện. Tài liệu lưu trữ tại Huyện uỷ Quỳnh Lưu
(2). Tài liệu lưu tại Văn phòng Đảng uỷ
(1)T rích báo cáo số 69/1999/BC-UB ngày 20/10/1999. Tài liệu lưu trữ tại văn phòng Đảng uỷ TT.
Thơ Nguyễn Du vịnh cầu Hoàng Mai.